Phương pháp tính chỉ số chứng khoán và một số chỉ số chứng khoán tiêu biểu
ĐỀ TÀI: PHƯƠNG PHÁP TÍNH CHỈ SỐ CHỨNG KHOÁN VÀ
MỘT SỐ CHỈ SỐ CHỨNG KHOÁN TIÊU BIỂU
I.KHÁI
QUÁT
1. Khái niệm chỉ số chứng khoán:
Chỉ số thị trường chứng khoán là một giá
trị thống kê phản ánh tình hình cổ phiếu. Chỉ số thị trường chứng khoán được
tổng hợp từ danh mục các cổ phiếu theo phương pháp nhất định. Thông thường,
danh mục sẽ bao gồm các cổ phiếu có những điểm chung như cùng niêm yết tại một
sở giao dịch, cùng ngành hay cùng mức vốn hóa thị trường
Các chỉ số chứng khoán này có thể do Sở
giao dịch chứng khoán định ra (Ví dụ như VNIndex do Ủy ban chứng khoán nhà nước
định ra); cũng có thể do hang thông tin ( Ví dụ: Nikkei 225 – Thời báo kinh tế
Nhật) hay một thể chế tài chính nào đó định ra ( Ví dụ: Hang Seng Index – Ngân
hàng Hang Seng).
2.Ý nghĩa của chỉ số chứng
khoán
Chỉ số giá
chứng khoán được coi là phong vũ biểu, hay là nhiệt kế để đo tình trạng sức
khoẻ của nền kinh tế, xã hội. Thông thường nền kinh tế tăng trưởng thì chỉ số
tăng và ngược lại. Tuy nhiên, giá chứng khoán nói riêng, giá
của thị trường nói chung đều là tổng hợp của hàng loạt yếu tố như: các yếu tố
kinh tế vĩ mô, các yếu tố của môi trường đầu tư... nhất là yếu tố tâm lý của
người đầu tư. Nhiều khi mới chỉ có dấu hiệu tăng trưởng của nền kinh tế (mà
thực sự chưa có) là mức lạc quan của nhà đầu tư đã có thể rất cao và họ đua
nhau đi mua chứng khoán, đẩy giá lên cao. Ngược lại, có khi tình hình chưa đến
nỗi tồi tệ, nhưng mọi người đã hoảng hốt bán tống bán tháo chứng khoán làm giá
giảm tồi tệ.
Có nhiều
cách tính chỉ số chứng khoán khác nhau nhưng mỗi một chỉ số chưng khoán đều ẩn
chứa thông tin về tình trạng thị trường
chứng khoán tại thời điểm tính. Mỗi chỉ số chứng khoán đứng riêng lẻ
không mang đến thông tin hữu ích cho nhà đầu tư, chỉ số chứng khoán phải được
theo dõi trong cả thời kỳ, cho thấy sự thay đổi của cả thời kỳ, thông qua đó
nhà đầu tư có thể nhìn nhận được xu thế, xu hướng của thị trường, từ đó có các
hoạt động đầu tư có hiệu quả
II.CÁC PHƯƠNG PHÁP TÍNH CHỈ SỐ CHỨNG KHOÁN
1. Chọn rổ đại diện
Như chúng ta đã biết ở sàn giao dịch chứng khoán New York có trên
3000 cổ phiếu niêm yết, nhưng chỉ số tổng hợp Dow Jone chỉ bao gồm 65 cổ phiếu.
Trong đó chỉ số Dow Jones công nghiệp (DJIA) chỉ bao gồm 30 cổ phiếu, Dow
Jones vận tải (DJTA) bao gồm 20 cổ phiếu và Dow Jones dịch vụ (DJUA) bao gồm
chỉ 15 cổ phiếu. Tuy chỉ bao gồm
một số lượng cổ phiếu niêm yết rất nhỏ như vậy trong tổng thể nhưng các chỉ số
Dow Jones vẫn trường tồn qua năm tháng, vì nó phản ánh được xu thế, động thái
của quá trình vận động của giá cả. Rổ đại diện này là tiêu biểu, đại diện được
cho tổng thể vì họ thường xuyên thay những cổ phiếu không còn tiêu biểu nữa
bằng cổ phiếu tiêu biểu hơn. Như vậy
việc chọn rổ đại diện có vai trò quan trọng trong việc tính chỉ số chứng khoán.
Việc chọn rổ đại diện thích hợp không những
giúp giảm bớt thời gian và nguồn lực so với việc tính chỉ số chứng khoán
dựa trên tất cả các cổ phiếu niêm yết trên sàn giao
dịch chứng khoán mà còn phản ảnh đúng được sự biến động trên thị trường. Ba tiêu thức quan trọng để xác định sự tiêu biểu của cổ phiếu để chọn vào
rổ đại diện là số lượng cổ phiếu niêm yết, giá trị niêm yết và tỷ lệ giao dịch,
mua bán chứng khoán đó trên thị trường (khối lượng và giá trị giao dịch).
Đối với Việt
Nam, hay bất kỳ thị trường nào khi mới ra đời, số lượng các cổ phiếu niêm yết
chưa nhiều, thì rổ đại diện nên bao gồm tất cả các cổ phiếu. Tuy nhiên cũng nên
chú ý đến khối lượng và giá trị giao dịch. Nếu một cổ phiếu nào đó trong một
thời gian dài không có giao dịch hoặc giao dịch không đáng kể thì nên tạm loại
khỏi phạm vi tính toán. Có như vậy chỉ số chúng ta tính ra mới phản ánh được
động thái vận động thực sự của giá cả thị trường.
2.Các phương pháp tính chỉ số chứng khoán
a)Phương pháp chỉ số bình quân giản
đơn
Công thức:
I
Trong đó:
I: là chỉ số giá
bình quân giản đơn
P1: Là giá thời kỳ
t của các hàng hóa tham gia tính toán
P0: Là giá thời kỳ
gốc chọn trước
Chỉ số
này tính toán rất đơn giản vì không phải theo dõi sự biến động của quyền số.
Nhưng chỉ số này chứa đựng tính chất của số bình quân giản đơn, bởi vậy chỉ nên
ứng dụng khi tổng thể là khá đồng đều, hay phương sai của chúng không quá lớn
Các chỉ số họ Dow Jone của Mỹ; Nikkei 225
của Nhật; MBI của Ý áp dụng phương pháp này.
b)Phương pháp bình quân gia quyền:
Chỉ số bình quân
gia quyền là chỉ số giá bình quân được tính có sự tham gia của khối lượng, có
nghĩa là sự biến đổi giá của những nhân tố có tỷ trọng khối lượng trong tổng
thể càng lớn thì ảnh hưởng càng nhiều đến chỉ số giá chung và ngược lại
I : Là chỉ số giá bình quân gia quyền
Chỉ số bình quân gia quyền có ưu điểm là có
đề cập đến quyền số trong quá trình tính toán. Phương pháp này tính toán phức
tạp hơn. Tuy nhiên do chọn rổ đại diện theo nhiều tiêu thức và mỗi tiêu thức
cũng có ưu nhược điểm riêng nên trong nhiều trường hợp chỉ số này không phản
ánh đúng tình hình giao dịch trên thị trường.
Phương pháp này gồm
2 dạng cơ bản:
Phương pháp Passcher:
Đây là loại chỉ số giá cổ phiếu thông dụng
nhất và nó là chỉ số giá bình quân gia quyền giá trị với quyền số là số lượng
chứng khoán niêm yết thời kỳ báo cáo. Kết quả tính sẽ phụ thuộc vào cơ cấu
quyền số thời kỳ báo cáo:
Người ta dùng công thức sau để tính:
Trong đó:
Chỉ số giá bình quân Passcher là chỉ
số giá bình quân gia quyền giá trị lấy quyền số là quyền số thời kỳ báo cáo, vì
vậy kết quả tính sẽ phụ thuộc vào cơ cấu quyền số (cơ cấu chứng khoán
niêm yết) thời kỳ báo cáo.
Nhược điểm: Phải thường xuyên cập
nhật quyền số và phương pháp tính cũng phức tạp
Ưu điểm: Phải thường xuyên cập nhật
khối lượng hàng hóa thời kỳ báo cáo nên khả năng phản ánh biến động của thị
trường tốt hơn
Các chỉ số KOSPI (Hàn Quốc); S&P500(Mỹ);
FT-SE 100 (Anh) ; TOPIX (Nhật) ; CAC (Pháp); TSE (Đài Loan); Hangseng (Hong
Kong); các chỉ số của Thuỵ Sĩ,.. và Vn- Index của Việt Nam áp dụng phương
pháp này.
Ví dụ về cách tính chỉ số VN
Index:
Tại phiên thứ nhất , ngày 28/7/2000, ta
có kết quả giao dịch thời điểm gốc như sau:
Mã CK
|
Giá thực hiện
|
Số lượng cổ phần
|
Giá trị thị
trường
|
REE
|
16.000đ
|
15triệu
|
240.000.000đ
|
SAM
|
17.000đ
|
12 triệu
|
204.000.000đ
|
Cộng
|
444.000.000đ
|
VN Index =
Phiên
thứ 2 ngày 31/7/2000: giá cổ phiếu REE là 16.300, giá cổ phiếu SAM là 17.200
VN Index =
Phương
pháp Laspeyres.
Chỉ số giá bình quân Laspeyres là chỉ
số giá bình quân gia quyền giá trị, lấy quyền số là số cổ phiếu niêm yết
thời kỳ gốc. Như vậy kết quả tính sẽ phụ thuộc vào cơ cấu quyền số thời kỳ gốc:
Trong đó:
Ưu điểm: không phải theo dõi liên
tục sự biến động của quyền số , vì quyền số gốc đã có sẵn ở ngay lần tính đầu
tiên
Nhược điểm: không cập nhật được sự
thay đổi của khối lượng trong quá trình giao dịch, mua bán
Có ít nước áp dụng phương pháp này, đó là
chỉ số FAZ, DAX của Đức.
c)Chỉ số giá bình quân Fisher
Chỉ số giá bình quân Fisher là chỉ số giá bình
quân nhân giữa chỉ số giá Passcher và chỉ số giá Laspayres. Phương pháp này
trung hoà được yếu điểm của hai phương pháp trên, tức là giá trị chỉ số tính
toán ra phụ thuộc vào quyền số của cả 2 thời kỳ: kỳ gốc và kỳ tính toán
Trong đó:
Ưu điểm: Loại trừ
được nhược điểm của hai phương pháp Passche và Laspeyres mắc phải
Về mặt lý luận có phương pháp này, nhưng
trong thống kê không thấy nó áp dụng ở bất kỳ một quốc giá nào.
d)Phương pháp bình quân nhân giản đơn
Chúng ta chỉ nên dùng loại chỉ số này khi độ
lệch chuẩn khá cao. Các chỉ số: Value line (Mỹ); FT-30 (Anh) áp dụng phương
pháp bình quân nhân giản đơn này.
Tuy nhiên về mặt lý luận, chúng ta có thể
tính theo phương pháp bình quân cộng hoặc bình quân nhân gia quyền với quyền số
là số chứng khoán niêm yết.
Quyền số thường được dùng trong tính toán
chỉ số giá cổ phiếu là số chứng khoán niêm yết. Riêng ở Đài Loan thì họ dùng số
chứng khoán trong lưu thông làm quyền số, bởi vì tỷ lệ đầu tư của công chúng
rất cao ở đây (80 - 90%).
3.Hệ số chia
Trong quá trình
tính toán một số nhân tố làm thay đổi về khổi lượng và giá trị của các cổ phiếu
trong rổ đại diện sẽ ảnh hưởng đến tính liên tục của chỉ số. Các yếu tố đó là:
Thêm, bớt cổ phiếu khỏi rổ đại diện, thay cổ phiếu trong rổ đại diện; nhập,
tách cổ phiếu; thưởng cổ phần, thưởng tiền, tăng vốn bằng cách phát hành cổ
phiếu mới; bán chứng quyền; cổ phiếu trong rổ đại diện bị giảm giá trong những
ngày giao dịch không có cổ tức... Để trừ khử ảnh hưởng của các yếu tổ thay đổi
về khối lượng và giá trị trong quá trình tính toán chỉ số giá cổ phiếu, làm cho
chỉ số giá cổ phiếu thực sự phản ánh đúng sự biến động của riêng giá cổ phiếu
mà thôi người ta dùng kỹ thuật điều chỉnh hệ số chia. Đây là một
đặc thù riêng của việc xây dựng chỉ số giá chứng khoán.
Ví dụ: về phương pháp tính chỉ số giá gia quyền giá trị Passcher mà nước
ta đang áp dụng, công thức tính như sau:
Chứng
khoán
|
Khối
lượng niêm yết
|
Giá
đóng cửa 21/7
|
Giá
đóng cửa ngày 31/7
|
Giá
đóng cửa ngày 2/8
|
A
B
C
|
1000
2000
5000
|
10
15
|
12
16
18
|
13
17
20
|
- Chỉ số giá ngày giao dịch đầu tiên là 100 (điểm)
I1=
100x(1000x10+2000x15)/(1000x10+2000x15) = 100
Hệ số chia: Do = 1000x10+2000x15 = 40000
- Chỉ số giá ngày 31/7 là 110 (điểm)
I2=100x (1000x12 + 2000x16)/ (1000x10+2000x15) = 110
Trong trường hợp này Do =D1 = 40000 và ngày này cổ phiếu C chưa được tham
gia vào việc tính chỉ số giá (vì mới có giá ban đầu chưa có thay đổi). Do đó
chỉ số giá của ngày 31-7 chỉ là chỉ số giả tổng hợp của 2 cổ phiếu A và B mà
thôi.
- Chỉ số giá ngày 2-8 là 120, 67 điểm phương pháp tính như sau:
I3= 100x(13x1000+17x2000+20x5000)/ D2
Tính D2 như sau:
( 12x1000 + 16x2000) ==> Hệ số chia là (10x1000+ 15x2000)
( 12x1000 + 16x2000 +18x5000) ==> Hệ số chia là D2
Từ đó:
D2=
Hệ số chia đã thay đổi từ 40 000 (Do và D1) thành 121
818,1818 (D2)
ð
I3= 120,67
III. MỘT SỖ CHỈ SỐ CHỨNG KHOÁN TIÊU BIỂU
1.Chỉ số Dow Jones
1.1 Giới thiệu chung về chỉ số Dow Jones
Khái
niệm: Là
chỉ số giá chứng khoán, phản ánh sự biến động bình quân của giá chứng khoán
thuộc thị trường chứng khoán New
York
Chỉ
số Dow Jones nói chung hiện nay là chỉ số giá chung của 65 chứng khoán đại
diện, thuộc nhóm hàng đầu (Blue chip) trong các chứng khoán được niêm yết tại
Sở giao dịch chứng khoán Newyork. Nó bao hàm 3 chỉ số thuộc 3 nhóm ngành: Công
nghiệp DJIA (Dow Jones Industrial Average), Vận tải DJTA (Dow Jones
Transportation Average) và Dịch vụ DJUA (Dow Jones Utilities Average).
+)Chỉ số DJIA là chỉ số lâu đời nhất ở Mỹ do ông Charles H.Dow cùng với công ty mang tên ông thu thập giá
đóng cửa của chứng khoán để tính ra và công bố trên Wall Street Journal từ năm
Bắt đầu công ty chỉ tính giá bình quân số học của 12 cổ phiếu. Ngày tính đầu
tiên là ngày 26/5/1896 với mức giá bình quân ngày này là 40.94$. Năm 1916 mở
rộng ra 20 cổ phiếu và năm 1928 tăng lên 30 cổ phiếu và giữ số lượng này cho
đến ngày nay. Trong quá trình đó thường xuyên có sự thay đổi các công ty trong
nhóm Top 30. Mỗi khi có công ty chứng tỏ là không thuộc tiêu chuẩn Top 30 của
các cổ phiếu Blue Chip nữa thì sẽ có công ty khác chiếm vị thế đó thay thế.
Công ty duy nhất còn lại đến nay kể từ đầu là công ty General Electric.
+)Chỉ số DJTA được công bố
đầu tiên vào ngày 26/10/1896 và cho đến 2/1/1970 vẫn mang tên chỉ số công
nghiệp đường sắt, vì thời gian này vận tải đường sắt là chủ yếu. Chỉ số DJTA
bao gồm 20 cổ phiếu của 20 công ty vận tải đại diện cho ngành đường sắt, đường
thuỷ và hàng không được niêm yết tại Sở giao dịch chứng khoán New York.
+)Chỉ số ngành phục vụ công cộng (DJUA):
được công bố trên tờ báo Wall Street từ tháng 1 năm 1929. Chỉ số này được tính
từ giá đóng cửa chứng khoán của 15 công ty lớn nhất trong ngành khí đốt và
điện.
1.2.
Một số nét về chỉ số DJIA
Trong 3 chỉ số nêu trên thì chỉ số
DJIA là chỉ số thông dụng nhất
1.2.1 Danh mục cổ phiếu
Danh
mục cổ phiếu của DJIA từ 23/09/2013
|
Nike |
|
Caterpillar Incorporated |
Home Deport |
|
Boeing Company |
Wal-Mart Stores |
|
3M Company |
Walt Disney Company |
|
United Technologies |
McDonald’s Corporation |
|
DuPont |
Coca –Cola Company |
Chevron Corporation |
General Electric |
Procter & Gamble |
Exxon Mobil Company |
INDUSTRY |
CONSUMER |
ENERGY |
|
||
Cisco Systems |
|
|
Verizon |
Visa |
|
AT&T Incorporated |
Goldman Sách |
United Health Group |
Intel |
The travels Companies |
Pfizer Incorporated |
Microsoft |
J.P. Morgan Chase |
Jonhson & Jonhson |
I.B.M |
American Express |
Merck |
TECHNOLOGY |
FINANCIAL |
HEALTH CARE |
Danh mục
trên là kết quả của đợt cơ cấu danh muc vào ngày 23/9/2013-đây là đợt cơ cấu
danh mục lớn nhất trong vòng 9 năm qua của Dow Jones. Sau đợt cơ cấu này, Goldman
Sách, Nike và Visa sẽ lần lượt thay thế
cho Bank of American, Hewlett- Packard (HP) và Alcoa. Danh
mục trên bao gồm 30 cổ phiếu thuộc 6 nhóm: công nghiệp, tiêu dùng, năng lượng,
công nghệ, tài chính và chăm sóc sức khỏe. Dù mang tên “Dow Jones Industrial Average” nhưng chỉ có 6 cổ phiếu thuộc ngành công nghiệp
nên chữ “Industrial” chỉ còn mang ý nghĩa lịch sử.
1.2.2
Những
dấu mốc đáng nhớ trong lịch sử Dow Jones
1.2.2.1.Năm 1929: Ngày thứ Ba đen tối
Thứ ba ngày 29.10.1929 có thể nói là ngày đen tối nhất đối với nền kinh tế Mỹ và những người chơi cổ phiếu. 10 giờ trưa, khi các sàn giao dịch chứng khoán ở New York vừa mở cửa, bất ngờ một loạt chứng từ bị ném mạnh đi, kéo theo đó là những tiếng thét trong sự thất vọng và đau khổ tột độ. Tất cả các cổ phiếu bỗng chốc trở thành “nắm giấy lộn” trong tay những người chơi. Không ít người đã bị “loại vũ khí đánh xa” này làm cho ngất xỉu, cả sàn giao dịch được một phen hỗn loạn. Chỉ số Dow Jones tụt xuống một cách khủng khiếp: từ mức cao nhất là 386 điểm xuống còn 298 điểm, giảm 22% so với các phiên giao dịch trước. Trong 12 năm lịch sử thị trường chứng khoán của nước Mỹ, ngày đó được gọi là “Ngày thứ ba đen tối”, hệ quả của nó là nền kinh tế Mỹ và thậm chí là của toàn thế giới bắt đầu bước vào thời kỳ cực kỳ tiêu điều kéo dài tới 10 năm.
Sau khi cơn ác mộng ập đến, tất cả mọi người đều sống trong hoang mang và oán trách. Thế nhưng không mấy người chơi cổ phiếu ở Mỹ hồi đó nhận thức được rằng, thật ra sự sụp đổ của thị trường chứng khoán lần đó đã được cảnh báo trước qua chính những dấu hiệu phát triển bất thường của nền kinh tế nước này.
Đối với Mỹ, Chiến tranh thế giới lần thứ nhất thực sự là một cơ hội vàng ngàn năm hiếm, giới tài phiệt ở Mỹ đã lợi dụng chiến tranh để kiếm những món lợi kếch sù. Sau khi chiến tranh kết thúc, Mỹ từ một nước “con nợ” bỗng trở thành chủ nợ lớn số 1 thế giới, cùng với đó New York cũng thay London trở thành trung tâm tài chính của thế giới. Nền kinh tế Mỹ phát triển như vũ bão, kéo theo đó là sự xuất hiện của thị trường chứng khoán. Để thu hút được ngày càng nhiều người chơi, các công ty kinh tế và giới khoán thương đã thuê một đội ngũ marketing cổ phiếu hùng hậu. Từ các con phố lớn tại trung tâm thành phố đông đúc dân cư cho đến những con hẻm nơi thị trấn hẻo lánh, trước mỗi gia đình đều có thể thấy nhân viên marketing của công ty này, công ty nọ đến quảng cáo, phân tích ưu thế của các cổ phiếu trong tay mình, thế nhưng họ lại không hề đề cập đến sự rủi ro. Sự nhiệt tình của dân chúng đã được khuấy động đúng lúc và cứ như thế, với sự hiểu biết mù mờ và nông cạn, rất nhiều người đã tìm mọi cách có được một món tiền kha khá để vào thành phố chơi cổ phiếu. Khi ấy, hành động này được coi là “mốt thời thượng” của người dân Mỹ.
Đến năm 1928, thị trường chứng khoán của Mỹ đã gần lên đến đỉnh điểm. Trong xe điện ngầm, mọi người không ngớt chỉ trích Công ty Tàu điện ngầm không trang bị máy điện báo trong các toa tàu, khiến cho họ không có cách nào theo dõi và chơi cổ phiếu được trong suốt chuyến đi. Tại một nhà máy ở Boston, trong mỗi gian xưởng đều có treo một tấm bảng đen và chuyên có một người cứ cách một giờ lại dùng phấn trắng viết thông báo tình hình mới nhất của các sàn giao dịch. Tại một nông trường ở tiểu bang Texas, những người nuôi bò thông qua tin tức của đài phát thanh thu được với những âm thanh rè rè khó nghe cũng nắm rõ tình hình từng giờ từng phút. Bất kể anh đi làm hay đi du lịch, trên tàu điện hay taxi, tài xế và khách có thể trao đổi tình hình cổ phiếu một cách rất nhiệt tình và sôi nổi, thậm chí ngay cả một đứa trẻ đánh giày trước cửa một khách sạn cũng có thể giới thiệu cho khách những cổ phiếu nóng hổi nhất trong phiên giao dịch ngày hôm đó.
Hầu hết những người chơi cổ phiếu ở Mỹ khi đó chỉ là người “chơi non”, không phải là những nhà đầu tư dài hạn. Trong bối cảnh của phong trào đầu cơ cuồng nhiệt đó, thị trường chứng khoán New York ngày càng trở nên nóng bỏng hơn bao giờ hết. Tất cả những người này chưa từng nghĩ rằng, cái bong bóng có to đến mấy cũng sẽ có ngày phải vỡ.
Độ nóng của thị trường chứng khoán khi đó đã hoàn toàn vượt xa tình hình phát triển thực tế của nền kinh tế, vượt khỏi sự kiểm soát của Bộ tài chính và Chính phủ Mỹ, hơn nữa rất nhiều người chơi lại thế chấp, hoặc cầm cố bằng những tờ cổ phiếu để tiến hành giao dịch tín dụng. Một khi lòng tin của người đầu cơ giảm xuống, điều tất yếu là phải tăng thêm nhiều tiền bảo hiểm, trong khi đó những nhà đầu cơ thiếu vốn chỉ còn mỗi cách là bán tháo đi thật nhiều cổ phiếu để bù, kết quả của nó chính là sự tụt giảm tất yếu của cổ phiếu.
Giữa tháng 9 và tháng 10.1929, lòng tin của các nhà đầu cơ bắt đầu tụt giảm, họ tiến hành bán tháo cổ phiếu của mình vào thứ năm, 24.10. Đến ngày 29.10, 65 vạn cổ phiếu của Công ty Gang thép của Mỹ đã được bán tháo với giá 179 USD mỗi cổ phiếu, nhưng cũng không tìm nổi được một người mua. Sau đó giá cổ phiếu của công ty này bắt đầu trượt dốc và như một thứ bệnh truyền nhiễm, hàng loạt công ty, công ty khác nối đuôi nhau hạ giá cổ phiếu. Sự sụp đổ đã thật sự cận kề. Những tấm cổ phiếu giá trị hôm nào nay bỗng chốc trở thành “tờ giấy lộn”, các con số đã trở nên vô nghĩa. Ông chủ Công ty Than của Mỹ nhìn bảng hiển thị đang tụt giảm đã ngã vật ra đất, chết ngay trong phòng làm việc. Vô số tỉ phú ngày nào nhờ cổ phiếu chỉ trong phút chốc đã trắng tay. Những ông trùm cự phách sau khi kết thúc chuyến du lịch trên biển quay lại mới phát hiện thấy rằng, mình đã trở thành một kẻ bần cùng không một xu dính túi.
Khi đó, “nhảy lầu” không chỉ là giá cổ phiếu, không ít người trước đó đã thế chấp nhà cửa vay vốn ngân hàng với số tiền lớn để đầu cơ vào cổ phiếu nay trở thành con nợ không có khả năng thanh toán, cách duy nhất để giải thoát chỉ có thể là… nhảy lầu. Chính tình trạng này đã làm cho hàng loạt ngân hàng lớn của Mỹ bị phá sản do không thu lại được số vốn đã cho vay, nền kinh tế của Mỹ rơi vào trạng thái tê liệt hoàn toàn, kinh tế phương Tây rơi vào cảnh tiêu điều. Sự sụp đổ của thị trường chứng khoán đã giáng một đòn chí mạng vào lòng tin của các nhà đầu cơ. Phải đến tận năm 1954, thị trường chứng khoán của Mỹ mới đạt được mức kỷ lục như năm 1929, thế nhưng cơn ác mộng đen tối ngày nào vẫn luôn là nỗi ám ảnh đáng sợ đối với người dân Mỹ.
Thứ ba ngày 29.10.1929 có thể nói là ngày đen tối nhất đối với nền kinh tế Mỹ và những người chơi cổ phiếu. 10 giờ trưa, khi các sàn giao dịch chứng khoán ở New York vừa mở cửa, bất ngờ một loạt chứng từ bị ném mạnh đi, kéo theo đó là những tiếng thét trong sự thất vọng và đau khổ tột độ. Tất cả các cổ phiếu bỗng chốc trở thành “nắm giấy lộn” trong tay những người chơi. Không ít người đã bị “loại vũ khí đánh xa” này làm cho ngất xỉu, cả sàn giao dịch được một phen hỗn loạn. Chỉ số Dow Jones tụt xuống một cách khủng khiếp: từ mức cao nhất là 386 điểm xuống còn 298 điểm, giảm 22% so với các phiên giao dịch trước. Trong 12 năm lịch sử thị trường chứng khoán của nước Mỹ, ngày đó được gọi là “Ngày thứ ba đen tối”, hệ quả của nó là nền kinh tế Mỹ và thậm chí là của toàn thế giới bắt đầu bước vào thời kỳ cực kỳ tiêu điều kéo dài tới 10 năm.
Sau khi cơn ác mộng ập đến, tất cả mọi người đều sống trong hoang mang và oán trách. Thế nhưng không mấy người chơi cổ phiếu ở Mỹ hồi đó nhận thức được rằng, thật ra sự sụp đổ của thị trường chứng khoán lần đó đã được cảnh báo trước qua chính những dấu hiệu phát triển bất thường của nền kinh tế nước này.
Đối với Mỹ, Chiến tranh thế giới lần thứ nhất thực sự là một cơ hội vàng ngàn năm hiếm, giới tài phiệt ở Mỹ đã lợi dụng chiến tranh để kiếm những món lợi kếch sù. Sau khi chiến tranh kết thúc, Mỹ từ một nước “con nợ” bỗng trở thành chủ nợ lớn số 1 thế giới, cùng với đó New York cũng thay London trở thành trung tâm tài chính của thế giới. Nền kinh tế Mỹ phát triển như vũ bão, kéo theo đó là sự xuất hiện của thị trường chứng khoán. Để thu hút được ngày càng nhiều người chơi, các công ty kinh tế và giới khoán thương đã thuê một đội ngũ marketing cổ phiếu hùng hậu. Từ các con phố lớn tại trung tâm thành phố đông đúc dân cư cho đến những con hẻm nơi thị trấn hẻo lánh, trước mỗi gia đình đều có thể thấy nhân viên marketing của công ty này, công ty nọ đến quảng cáo, phân tích ưu thế của các cổ phiếu trong tay mình, thế nhưng họ lại không hề đề cập đến sự rủi ro. Sự nhiệt tình của dân chúng đã được khuấy động đúng lúc và cứ như thế, với sự hiểu biết mù mờ và nông cạn, rất nhiều người đã tìm mọi cách có được một món tiền kha khá để vào thành phố chơi cổ phiếu. Khi ấy, hành động này được coi là “mốt thời thượng” của người dân Mỹ.
Đến năm 1928, thị trường chứng khoán của Mỹ đã gần lên đến đỉnh điểm. Trong xe điện ngầm, mọi người không ngớt chỉ trích Công ty Tàu điện ngầm không trang bị máy điện báo trong các toa tàu, khiến cho họ không có cách nào theo dõi và chơi cổ phiếu được trong suốt chuyến đi. Tại một nhà máy ở Boston, trong mỗi gian xưởng đều có treo một tấm bảng đen và chuyên có một người cứ cách một giờ lại dùng phấn trắng viết thông báo tình hình mới nhất của các sàn giao dịch. Tại một nông trường ở tiểu bang Texas, những người nuôi bò thông qua tin tức của đài phát thanh thu được với những âm thanh rè rè khó nghe cũng nắm rõ tình hình từng giờ từng phút. Bất kể anh đi làm hay đi du lịch, trên tàu điện hay taxi, tài xế và khách có thể trao đổi tình hình cổ phiếu một cách rất nhiệt tình và sôi nổi, thậm chí ngay cả một đứa trẻ đánh giày trước cửa một khách sạn cũng có thể giới thiệu cho khách những cổ phiếu nóng hổi nhất trong phiên giao dịch ngày hôm đó.
Hầu hết những người chơi cổ phiếu ở Mỹ khi đó chỉ là người “chơi non”, không phải là những nhà đầu tư dài hạn. Trong bối cảnh của phong trào đầu cơ cuồng nhiệt đó, thị trường chứng khoán New York ngày càng trở nên nóng bỏng hơn bao giờ hết. Tất cả những người này chưa từng nghĩ rằng, cái bong bóng có to đến mấy cũng sẽ có ngày phải vỡ.
Độ nóng của thị trường chứng khoán khi đó đã hoàn toàn vượt xa tình hình phát triển thực tế của nền kinh tế, vượt khỏi sự kiểm soát của Bộ tài chính và Chính phủ Mỹ, hơn nữa rất nhiều người chơi lại thế chấp, hoặc cầm cố bằng những tờ cổ phiếu để tiến hành giao dịch tín dụng. Một khi lòng tin của người đầu cơ giảm xuống, điều tất yếu là phải tăng thêm nhiều tiền bảo hiểm, trong khi đó những nhà đầu cơ thiếu vốn chỉ còn mỗi cách là bán tháo đi thật nhiều cổ phiếu để bù, kết quả của nó chính là sự tụt giảm tất yếu của cổ phiếu.
Giữa tháng 9 và tháng 10.1929, lòng tin của các nhà đầu cơ bắt đầu tụt giảm, họ tiến hành bán tháo cổ phiếu của mình vào thứ năm, 24.10. Đến ngày 29.10, 65 vạn cổ phiếu của Công ty Gang thép của Mỹ đã được bán tháo với giá 179 USD mỗi cổ phiếu, nhưng cũng không tìm nổi được một người mua. Sau đó giá cổ phiếu của công ty này bắt đầu trượt dốc và như một thứ bệnh truyền nhiễm, hàng loạt công ty, công ty khác nối đuôi nhau hạ giá cổ phiếu. Sự sụp đổ đã thật sự cận kề. Những tấm cổ phiếu giá trị hôm nào nay bỗng chốc trở thành “tờ giấy lộn”, các con số đã trở nên vô nghĩa. Ông chủ Công ty Than của Mỹ nhìn bảng hiển thị đang tụt giảm đã ngã vật ra đất, chết ngay trong phòng làm việc. Vô số tỉ phú ngày nào nhờ cổ phiếu chỉ trong phút chốc đã trắng tay. Những ông trùm cự phách sau khi kết thúc chuyến du lịch trên biển quay lại mới phát hiện thấy rằng, mình đã trở thành một kẻ bần cùng không một xu dính túi.
Khi đó, “nhảy lầu” không chỉ là giá cổ phiếu, không ít người trước đó đã thế chấp nhà cửa vay vốn ngân hàng với số tiền lớn để đầu cơ vào cổ phiếu nay trở thành con nợ không có khả năng thanh toán, cách duy nhất để giải thoát chỉ có thể là… nhảy lầu. Chính tình trạng này đã làm cho hàng loạt ngân hàng lớn của Mỹ bị phá sản do không thu lại được số vốn đã cho vay, nền kinh tế của Mỹ rơi vào trạng thái tê liệt hoàn toàn, kinh tế phương Tây rơi vào cảnh tiêu điều. Sự sụp đổ của thị trường chứng khoán đã giáng một đòn chí mạng vào lòng tin của các nhà đầu cơ. Phải đến tận năm 1954, thị trường chứng khoán của Mỹ mới đạt được mức kỷ lục như năm 1929, thế nhưng cơn ác mộng đen tối ngày nào vẫn luôn là nỗi ám ảnh đáng sợ đối với người dân Mỹ.
1.2.2.2. Năm 1987: Ngày thứ Hai đen tối
Thứ hai ngày 19.10.1987, lại là tháng 10 và
cũng là một ký ức đen tối của những người chơi cổ phiếu nước Mỹ. Chỉ trong một
ngày chỉ số Dow Jones tụt 508,32 điểm, mọi cố gắng nhằm làm cho nó ổn định lại
đều thất bại. Chỉ trong một ngày, thị trường chứng khoán của Mỹ đã rơi vào
trạng thái đóng băng. Đây là “ngày tồi tệ nhất trong lịch sử phố Wall”. Chịu
ảnh hưởng từ sự sụp đổ của thị trường chứng khoán của Mỹ, hàng loạt thị trường
chứng khoán của London, Tokyo, Sydney, Hong Kong, Singapore đều thi nhau tụt
giảm. “Tai họa năm 1929 đã thật sự trở lại?”, nỗi sợ hãi tột độ như loại virus
nhanh chóng lan truyền từ người này tới người khác. Cảnh tượng ngày nào đang
tái hiện trước mắt mọi người, rất nhiều nhà tỉ phú bỗng chốc biến thành những
kẻ nghèo kiết xác, tinh thần suy sụp, tin tức về các vụ tự sát không ngừng được
thông báo.
Khác với phong trào chơi cổ phiếu toàn dân như năm 1929, sự khủng hoảng lần này không có sự đầu cơ điên cuồng mang tính toàn dân, thế nhưng trước khi cuộc khủng hoảng này xảy ra, thị trường chứng khoán phố Wall cũng đã chứng kiến tình trạng mua bán cổ phiếu ào ạt của những người đầu cơ ngắn hạn. Từ thập niên 1970 đến 1980, nền kinh tế Mỹ bước vào thời kỳ phát triển nhanh chóng. Bắt đầu từ năm 1982, chỉ số chứng khoán không ngừng tăng nhanh, đến năm 1987, thị trường chứng khoán Mỹ đã ở vào tình trạng “nóng nhất”, chỉ số cổ phiếu cao đã hấp dẫn ngày càng nhiều người tham gia chơi, những người này đều đến để kiếm lời, họ không ngừng đưa giá cổ phiếu lên cao ngất ngưởng, một quả bong bóng vô thực lại được tạo ra. Cũng như năm 1929, quả bong bóng được sinh ra trong giai đoạn quá độ sẽ có ngày phải vỡ tan.
Và cái ngày 19.10 cuối cùng cũng giáng xuống. Ngày hôm đó, trên tất cả các sàn giao dịch chứng khoán của New York bao trùm một bầu không khí căng thẳng và u ám. Các loại cổ phiếu thi nhau rớt giá. Giá cổ phiếu biến động đã khiến cho các máy điện thoại liên lạc không còn đủ để sử dụng, tốc độ hiển thị trên màn hình máy tính không theo kịp sự thay đổi thực tế trên thị trường. Tờ New York Times với các tít “Tất cả ngoài tầm kiểm soát” đã thể hiện được sự bất lực và sự sợ hãi tột cùng của những người đầu cơ.
Cũng trong ngày hôm đó, tỉ phú số 1 thế giới Sam Wolton đã mất trắng 2,1 tỉ USD, cùng với đó mất ngay ngôi số 1. Càng thảm hại hơn là những người dân đã quăng tất cả tài sản tích cóp cả đời của mình vào cổ phiếu, họ những mong mình và gia đình sẽ có được những chiếc xe Ford sang trọng và nổi tiếng nhờ thị trường cổ phiếu, hoặc một số người khiêm tốn hơn chỉ mong kiếm được chút tiền dưỡng già… Thế nhưng chỉ trong một ngày, bao mơ ước, bao công sức của họ đã vỡ tan theo sự sụp đổ của thị trường chứng khoán.
Có điều cuộc khủng hoảng lần này còn may mắn hơn cuộc khủng hoảng năm 1929, bởi vào lúc này nền kinh tế của Mỹ vẫn giữ được tốc độ tăng trưởng nhanh, cuộc khủng hoảng lần này xét ở tầm vĩ mô chỉ là một sự điều chỉnh đối với các hoạt động đầu cơ, do đó không dẫn đến cuộc khủng hoảng toàn bộ nền kinh tế. Thực tế cũng cho thấy, không lâu sau lần cổ phiếu tụt giá khủng khiếp này, thị trường chứng khoán đã nhanh chóng ổn định trở lại. Thế nhưng, cú sốc của nó đối với nền kinh tế nước Mỹ cũng không phải là nhỏ khi để lại hệ quả là nền kinh tế nước này bị đình trệ trong một khoảng thời gian khá dài.
Khác với phong trào chơi cổ phiếu toàn dân như năm 1929, sự khủng hoảng lần này không có sự đầu cơ điên cuồng mang tính toàn dân, thế nhưng trước khi cuộc khủng hoảng này xảy ra, thị trường chứng khoán phố Wall cũng đã chứng kiến tình trạng mua bán cổ phiếu ào ạt của những người đầu cơ ngắn hạn. Từ thập niên 1970 đến 1980, nền kinh tế Mỹ bước vào thời kỳ phát triển nhanh chóng. Bắt đầu từ năm 1982, chỉ số chứng khoán không ngừng tăng nhanh, đến năm 1987, thị trường chứng khoán Mỹ đã ở vào tình trạng “nóng nhất”, chỉ số cổ phiếu cao đã hấp dẫn ngày càng nhiều người tham gia chơi, những người này đều đến để kiếm lời, họ không ngừng đưa giá cổ phiếu lên cao ngất ngưởng, một quả bong bóng vô thực lại được tạo ra. Cũng như năm 1929, quả bong bóng được sinh ra trong giai đoạn quá độ sẽ có ngày phải vỡ tan.
Và cái ngày 19.10 cuối cùng cũng giáng xuống. Ngày hôm đó, trên tất cả các sàn giao dịch chứng khoán của New York bao trùm một bầu không khí căng thẳng và u ám. Các loại cổ phiếu thi nhau rớt giá. Giá cổ phiếu biến động đã khiến cho các máy điện thoại liên lạc không còn đủ để sử dụng, tốc độ hiển thị trên màn hình máy tính không theo kịp sự thay đổi thực tế trên thị trường. Tờ New York Times với các tít “Tất cả ngoài tầm kiểm soát” đã thể hiện được sự bất lực và sự sợ hãi tột cùng của những người đầu cơ.
Cũng trong ngày hôm đó, tỉ phú số 1 thế giới Sam Wolton đã mất trắng 2,1 tỉ USD, cùng với đó mất ngay ngôi số 1. Càng thảm hại hơn là những người dân đã quăng tất cả tài sản tích cóp cả đời của mình vào cổ phiếu, họ những mong mình và gia đình sẽ có được những chiếc xe Ford sang trọng và nổi tiếng nhờ thị trường cổ phiếu, hoặc một số người khiêm tốn hơn chỉ mong kiếm được chút tiền dưỡng già… Thế nhưng chỉ trong một ngày, bao mơ ước, bao công sức của họ đã vỡ tan theo sự sụp đổ của thị trường chứng khoán.
Có điều cuộc khủng hoảng lần này còn may mắn hơn cuộc khủng hoảng năm 1929, bởi vào lúc này nền kinh tế của Mỹ vẫn giữ được tốc độ tăng trưởng nhanh, cuộc khủng hoảng lần này xét ở tầm vĩ mô chỉ là một sự điều chỉnh đối với các hoạt động đầu cơ, do đó không dẫn đến cuộc khủng hoảng toàn bộ nền kinh tế. Thực tế cũng cho thấy, không lâu sau lần cổ phiếu tụt giá khủng khiếp này, thị trường chứng khoán đã nhanh chóng ổn định trở lại. Thế nhưng, cú sốc của nó đối với nền kinh tế nước Mỹ cũng không phải là nhỏ khi để lại hệ quả là nền kinh tế nước này bị đình trệ trong một khoảng thời gian khá dài.
1.2.3.Diễn biến của DJIA trong những năm gần đây
1.2.3.1 Giai đoạn 2000-2011
Trong
giai đoạn này, chỉ số Dow Jones đạt mức cao nhất là 14000 điểm vào cuối năm 2007, sau đó giảm
dần rồi giảm mạnh vào cuối năm 2008 và chạm đáy vào 9/3/2009 ở mức 6547 điểm.Nguyên
nhân là do cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008
1.2.3.2 Diễn biến của DJIA từ 10/2012 đến 9/2013
Trong
khoảng thời gian này, chỉ số DJIA lên mức cao nhất là 15 658 điểm vào 2/8/2013,
vượt mức kỷ lục năm 2007.Sau đó chỉ số này giảm dần và chỉ tăng trở lại vào
những ngày đầu tháng 9
Hiện nay chỉ số DJIA khoảng 15 400đ
2. Chỉ
số Nikkei 225:
2.1 Giới thiệu chung
- Khái niệm: Nikkei 225 là chỉ số thị trường chứng khoán cho sàn GDCK Tokyo (Tokyo Stock Exchange- TSE), là chỉ số
quan trọng nhất của thị trường chứng khoán châu Á.
-Chỉ số Nikkei bao gồm 225 cổ phiếu Blue-chip đại diện cho các công ty ở Nhật, và
là một chỉ số tính theo giá (đơn vị đồng Yên). Các công ty thành phần của Nikkei 225
được thẩm định hàng năm và kết quả thẩm định này sẽ được công bố vào tháng 9.
Các sự thay đổi, nếu có, sẽ được tiến hành vào đầu tháng 10. Sự thay đổi có thể
xảy ra bất cứ lúc nào nếu một cổ phiếu được cho là không đủ điều kiện (như
không còn niêm yết, …). Tất cả đề xuất thay đổi sẽ được đăng trên báo Nikkei’s
Japanese và trên NNI.
-Chỉ số Nikkei 225 bắt đầu có
hiệu lực từ 16 tháng 5 năm 1949, và bắt đầu được tính toán từ 7 tháng 9 năm
1950. Kể từ năm 1971, báo Nihon Keizai Shimbun (Japan Economic Journal) –gọi
tắt là Nikkei ,nhận trách nhiệm tính toán chỉ số này hàng ngày với cái tên
Nikkei Dow Jones Stock Average, và được đổi tên vào năm 1985. Chỉ số Nikkei được thiết lập để phản
ánh toàn thị trường, chứ không phải ngành công nghiệp cụ thể nào cả. Chỉ số
Nikkei 225 cho các hợp đồng quyền chọn (Nikkei 225 Futures), được giới thiệu
ban đầu trên Sàn giao dịch chứng khoán Osaka (OSE), Chicago Mercantile Exchange
(CME), Singapore Exchange (SGX), và ngày nay trở thành một chỉ số cho hợp đồng quyền chọn được cả thế giới công
nhận.
2.2 Diễn biến
2.2.1 Khái quát giai
đoạn 1985-2013
Trong khoảng thời gian này, chỉ số DJ đạt
mức kỷ lục vào ngày 29/9/1989 ở mức xấp
xỉ 39000 điểm sau đó sụt giảm nhanh chóng .Nguyên nhân là do bong bóng tài sản.
Bong bóng tài sản Nhật Bản
hình thành sau thời gian dài nở rộ kinh tế hậu chiến tranh và bắt đầu tăng tốc
vào nửa cuối thập niên 80 của thế kỷ trước. Thị trường chứng khoán Nhật Bản
tăng đột biến với chỉ số Nikkei 225
tăng hơn 300%, từ 13.000 điểm năm 1986 lên 38.975 điểm năm 1989.Từ năm 1992,
bong bóng tài sản ở Nhật Bản bắt đầu vỡ. Chỉ số Nikkei 225 từ mức 38.975 điểm
năm 1989 nhanh chóng rơi xuống còn 15.025 điểm vào tháng 7-1992 và tiếp tục rơi
tự do trong thập niên mất mát. Giá nhà ở tại 6 thành phố lớn của Nhật Bản giảm
64% trong giai đoạn 1991-2005. Bong bóng vỡ khiến Nhật Bản rơi vào thập niên
mất mát, tăng trưởng âm trong 11 năm kể từ năm 1991 và trồi sụt từ năm 2003 đến
nay. Theo Tòa án Tối cao Nhật Bản, nơi thụ lý các vụ án phá sản, từ năm
1994-2003, số vụ phá sản cá nhân tăng 600%. Một điều lưu ý là khi thị trường chứng khoán
thế giới sụp đổ vào năm 1987 thì chỉ số Nikkei không bị dao động mạnh, nhưng
đến cuộc khủng khoảng năm 2008 thì chỉ số này bị ảnh hưởng mạnh ,rơi xuống mức
thấp nhất từ trước đến nay vào khoảng cuối năm 2008, đầu năm 2009
2.2.2 Giai đoạn
10/2012 – 9/2013
Từ tháng 10/2012 đến 5/2013
chỉ số hầu như tăng, đạt mức cao nhất vào 22/5/2013 với 15 627 điểm. Nguyên nhân: thị trường Tokyo dường như phản ứng tích cực trước
các tín hiệu khả quan tại Phố Wall, nơi chỉ số bình quân công nghiệp Dow Jones
đạt mức cao nhất trong vòng năm năm qua (tính đến ngày 22/5).Hiện nay
chỉ số Nikkei khoảng 14400 điểm
chào bạn, cám ơn bài viết của bạn, nó rất có ích. Nhưng cho mình hỏi, sao phần công thức bị mất?
ReplyDelete