Thực trạng sử dụng các công cụ trong điều hành chính sách tiền tệ giai đoạn 2008 2013


I.Chính sách chiết khấu
LÃI SUẤT CHIẾT KHẤU
Giá trị
Ngày áp dụng
Giá trị
Ngày áp dụng
Giá trị
Ngày áp dụng
6
26/03/2013
6%
01/11/2010
5%
10/04/2009
7%
24/12/2012
6%
01/10/2010
6,0%
01/02/2009
8%
01/07/2012
6%
01/09/2010
7.5%/năm
22/12/2008
9%
11/06/2012
6%
01/08/2010
9,0%/năm
05/12/2008
10%
28/05/2012
6%
01/09/2010
10%
21/11/2008
11%
11/04/2012
6%
10/08/2010
11%/năm
05/11/2008
12%
13/03/2012
6%
01/06/2010
12.0%/năm
21/10/2008
13%
01/05/2011
6%
01/02/2010
13,0%/năm
11/06/2008
12%
08/03/2011
6%/năm
01/12/2009
11,00%/năm
19/05/2008
7%
01/12/2010
5,0%/năm
01/10/2009
11%
19/05/2008
7%
05/11/2010




1.Thành tựu
-giai đoạn 2008-2009
Sau hơn hai năm giữ ổn định ở mức 8,25%/năm, lãi suất cơ bản (LSCB) đã được NHNN điều chỉnh tăng lên mức 8,75% từ 01/02/2008 và nhảy vọt lên mức 12% từ 19/05/08. Chưa đầy 1 tháng sau đó, từ ngày 11/06/09, LSCB đã được đẩy lên mức đỉnh – 14%. Cùng với LSCB, lãi suất tái chiết khấu (LSTCK), lãi suất tái cấp vốn (LSTCV) cũng liên tiếp được điều chỉnh tăng với đỉnh tương ứng là 13% và 15% áp dụng trong khoảng thời gian từ 11/06/08-20/10/08. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các TCTD cũng được điều chỉnh tăng trong khi lãi suất DTBB bị điều chỉnh giảm. NHNN còn phát hành trên 20.000 tỷ đồng tín phiếu bắt buộc đối với các NHTM.
          Chính sách tiền tệ thắt chặt với hàng loạt các động thái quyết liệt trên đã tạo ra một lực hút mạnh thu hút tiền từ lưu thông đồng thời làm giảm mạnh cấp tín dụng từ các NHTM ra thị trường. Và kết quả là lạm phát đã bị chặn đứng và đẩy lùi từ đỉnh điểm 3,91%/tháng (tương đương 25,2%/năm) trong tháng 5 xuống các mức thấp hơn trong quý 3 và thậm chí âm trong các tháng cuối năm. Tỷ lệ lạm phát cả năm 2008 chỉ còn là 19,89%. 
Sau khi đã thực hiện thành công vai trò kiềm chế lạm phát, NHNN đã từng bước nới lỏng chính sách tiền tệ và lãi suất vẫn là một công cụ hết sức quan trọng. LSCB đã hạ dần từ đỉnh 14% xuống 13% (từ 21/10/08), 12% (từ 05/11/08) và liên tiếp được điều chỉnh tới 3 lần trong vòng 1 tháng cuối năm 2008 (11% từ 21/11/08, 10% từ 05/12/08, 8,5% từ 22/12/08) trước khi giữ ổn định ở mức 7% (từ 01/02/09) như hiện nay. Cùng với LSCB, LSTCK, LSTCV cũng được điều chỉnh giảm; các NHTM được bán tín phiếu bắt buộc trước hạn; Tỷ lệ dự trữ bắt buộc được nới lỏng dần đi kèm với việc điều chỉnh lãi suất DTBB. Các công cụ trên đã tác động mạnh tới thị trường, làm tăng dần mức cung tiền cho nền kinh tế. Tăng trưởng tín dụng 2008 đạt ~ 23% (bằng gần ½ mức tăng của năm 2007), riêng 6 tháng đầu năm 2009 đạt ~ 17,1%, tăng ~ 17,8% so với cùng kỳ 2008. Tăng trưởng tín dụng đã góp phần chặn đà suy giảm, ổn định kinh tế vĩ mô
    Một số chuyển biến tích cực của cơ chế điều hành lãi suất 2011-2012:
-Cơ chế điều hành các loại lãi suất năm 2012đượcđiều chỉnh linh hoạt, hợp lý và đồng bộ hơn so với 2011,  phát huy đượcvai trò Ngân hàng trung ương là người cho vay cuối cùng.
Từ tháng 6/2011 đến nay, các lãi suất chủ chốt của NHNN được điều hành theo cơ chế: “trần” là lãi suất tái cấp vốn,  “sàn” là lãi suất chiết khấu, biên độ giao động +/- 2% để điều tiết thị trường, lãi suất cơ bản và lãi suất thị trường mở được ấn định biến động trong biên độ giữa lãi suất tái cấp vốn(trần) và lãi suất chiết khấu(sàn).
Các lãi suất điều hành của NHNN và lãi suất huy động vốn của NHTMđược điều chỉnh giảm xuống theo xu hướng giảm thấp của CPI (3/2012-10/2012), đảm bảo nguyên tắc thực dương,  nguồn vốn huy động 10 tháng tăng +14.2%,  thanh khoản của hệ thống Ngân hành được cải thiện bằng nguồn vốn hút vào từ nền kinh tế chứ không phải từ nguồn tái cấp vốn như năm 2011.
Từ tháng 6/2011-10/2012:Mối quan hệ giữa các loại lãi suất được điều chỉnh hợp lý hơn thời kỳ trước đó, theo nguyên tắc: Lãi suất tái chiết khấu< lãi suất huy động vốn dưới 12 tháng < lãi suất tái cấp vốn; “sàn” là lãi suất tái chiết khấu; “Trần” là lãi suất tái cấp vốn; Biên độ 1-2%,  lãi suất huy động vốn của TCTD biến động trong biên độ nói trên.
Sự đổi mới cơ chế lãi suất lãi suất nói trên đã khuyến khích các TCTD huy động vốn từ nền kinh tế, hạn chế vay vốn từ NHNN,  không còn cơ hội cho các TCTD lợi dụng vay tái cấp vốn của NHNN để cho vay lại trên thị trường liên ngân hàng với lãi suất cao để hưởng chênh lệch lãi suất lớn.
-Lãi suất huy động và cho vay của TCTD 2012 giảm hơn nhiều so với 2011,  đặc biệt là chính sách cho vay lãi suất thấp hơn các đối tượng khác đối với 4 đối tượng sản xuất kinh doanh được ưu tiên, là quyết định đúng đắn, kịp thời;tác động tích cực đến giảm chi phí vay vốn cho doanh nghiệp, hỗ trợ mục tiêu tăng trưởng.
So với cuối năm 2011, lãi suất tiền gửi có kỳ hạn dưới 12 tháng giảm được 6%/năm(14%/năm xuống 8%/năm), lãi suất cho vay 4 đối tương ưu đãi giảm được 4%-5%/năm (16-17%/năm xuống 12%/năm). Hiện nay,  lãi suất cho vay phổ biến đối với 4 lĩnh vực ưu tiên: nông nghiệp,  nông thôn,  xuất khẩu,  doanh nghiệp nhỏ và vừa,  công nghiệp hỗ trợ ở mức 11-12%/năm; cho vay lĩnh vực sản xuất kinh doanh khác ở mức 14-17%/năm. Đặc biệt, lãi suất liên ngân hàng giảm mạnh 8-9%/năm so với đầu năm 2012,  thị trường tiền tệ đã có sự cải thiện tích cực hơn nhiều so với năm 2011
Cơ chếlãi suất thỏa thuận đối với lãi suất huy động vốn trên 12 tháng và lãi suất cho vay trung dài hạn là bước đi phù hợp, tạo điều kiện cho các NHTM hoạt động kinh doanh theo nguyên tắc thương mại và thị trường.
Cơ chế lãi suất huy động  lãi suất thỏa thuận được thực hiện theo Thông tư 19/2012/TT-NHNN ngày 8/6/2012: “Lãi suất tiền gửi có kỳ hạn 12 tháng trở lên do TCTD ấn định trên cơ sở cung cầu vốn thị trường”.
Lãi suất cho vay thỏa thuận được thực hiện từ 14/4/2010 theo Thông tư số 12/2010/TT-NHNN vàthông tư 14/2012/TT-NHNN từ ngày 4/5/2012. Đối với các khoản cho vay ngoài 4 lĩnh vực ưu tiên TCTD cho vay theo lãi suất
thỏa thuận.
Đồ thị 2: CPI và các loại lãi suất
2.Hạn chế
Duy trì quá lâu cơ chế điều hành trực tiếp lãi suất lãi suất huy động vốn và cho vay của các TCTD, làm cho các mức lãi suất kinh doanh của TCTD không phù hợp với cung cầu vốn tín dụng trên thị trường và  giảm tác dụng của các công cụ lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu, lãi suất OMO, công cụ dự trữ bắt buộc.
NHNN có nhiều giải pháp và công cụ gián tiếp để tác động điều chỉnh lãi suất kinh doanh của các TCTD. Cụ thể,  khi muốn điều chỉnh lãi suất kinh doanh của các TCTD đối với nền kinh tế, NHNN sẽ thực hiện thông qua việc điều chỉnh các mức lãi suất tái cấp vốn, tái chiết khấu đối với TCTD.Từ đó tác động đến lãi suất thị trường liên ngân hàng.Cuối cùng sẽ tác động đến lãi suất kinh doanh của các TCTD đối với khách hàng.Nếu NHNN trực tiếp quyết định cả mức lãi suất cho vay và huy động vốn của các TCTD thì công cụ lãi suất điều hành của NHNN sẽ không phát huy hết tác dụng.
Trên thực tế, trong suốt thời kỳ 2011-2012, NHNN quyết định trực tiếp các mức lãi lãi suất huy động cho vay của TCTD đối với khách hang đối với từng kỳ hạn và đối tượng khách hàng(trừ lãi suất huy động trên 12 tháng theo Thông tư 19/2012/TT-NHNN ngày 8/6/2012  và lãi suất cho vay thỏa thuận theo Thông tư số 12/2010/TT-NHNN và Thông tư 14/2012/TT-NHNN ngày 4/5/2012);Cơ chế điều hành trực tiếp quyết các mức lãi suất kinh doanh của các TCTD đã làm vô hiệu hóa các mức lãi suất điều hành chủ chốt của NHNN( lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu)
Lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam theo quy định pháp luật hiện hành là lãi suất thực hiện vai trò định hướng thị trường tiền tệ, nhưnghiện nay chỉ mang tính hình thức, chưa trở thành lãi suất cơ sở, chuẩn mực để định hướng cho các loại lãi suất khác trên thị trường.Vì thế làm tăng rủi ro pháp lý trong hoạt động kinh doanh tiền tệ tín dụng và các quan hệ dân sự khi có phát sinh tố tụng.
Luật dân sự 2005 quy định các TCTD không được phép huy động và cho vay với lãi suất cao hơn 150% mức lãi suất cơ bản do NHNN công bố. Luật NHNN số 46/2010/QH12 “Ngân hàng Nhà nước công bố lãi suất tái cấp vốn,  lãi suất cơ bản và các loại lãi suất khác để điều hành chính sách tiền tệ,  chống cho vay nặng lãi”.
Trên thực tế, lãi suất cơ bản hiện nay là lãi suất mang tính hình thức,  không có cơ sở kinh tế và không liên quan đến bất kỳ quan hệ cung cầu vốn trên các thị trường.
Vai trò đinh hướng và tác động của các loại lãi suất điều hành của NHNN (lãi suất tái cấp vốn,  tái chiết khấu, OMO) đến lãi suất thị trường rất hạn chế.Một trong những nguyên nhân chủ yều là phương pháp xác định các loại lãi suất trên còn bất cập,  không dựa trên cơ sở lãi suất cơ bản là lãi suất chuẩn; cơ chế điều hành cụ thể các loại lãi suất chưa được ban hành rõ ràng.
Thực tế trong thời gian qua, NHNN chưa ban hành được cơ chế điều hành và phương pháp xác định cụ thể từng loại lãi suất trên. Khi quyết định các loạilãi suất chủ yếu dựa vào diễn biến số liệu báo cáo thực hiện chỉ số CPI,  các chỉ số kinh tế vĩ mô tháng trước và quan điểm chỉ đạo điều hành mục tiêu CSTTcủa Chính phủ, thiếu các thông tin,  phân tích dự báo thị trường về cung cầu,  số lượng giao dịch, lãi suất, ..; Do đó các lãi suất được điều hành không sát với cung cầu tiền tệ và lãi suất thực trên thị trường, hạn chế tác dụng điều tiết của các công cụ lãi suất.
Sự điều chỉnh các mức lãi suất chưatheo sát kịp với diễn biến hàng tháng của chỉ số CPI cả về biên độ và xu hướng, làm giảm hiệu quả và tác dụng của công cụ lãi suất.
Phân tích diễn biến CPI và các mức lãi suất thời kỳ 2011-2012 có thể thấy: đường biến thiên của các loại lãi suất và chỉ số CPI chỉ có 4 tháng là cùng xu hướng(2/2012-6/2012)còn lại là lệch pha với biên độ chênh lệch quá lớn,  nên hiệu quả tác động đến dự trữR của các TCTD và M2 không đáng kể.
Phân tích biến động lãi suất tái cấp vốn với CPI (2011-2012):
Trong giai đoạn 2011-2012, NHNN có 6 lần điều chỉnh lãi suất (%/năm) theo xu hướng tăng liên tục(1/2011-2/2012): 9%, 11%, 12%, 13%, 14%, 15%;  có 4 lần điều chỉnh giảm liên tục (3/2012-10/2012): 14%, 13%, 12%, 11%, 10% nhằm thực hiện mục tiêu…
Nhưng do các biên độ mỗi lần điều chỉnh quá hẹp, xu hướng điều chỉnh rất hiếm khi phù hợp với xu hướng biến động của CPI nên tác động lên cung tiền và lãi suất thị trường tiền tệ rất kém hiệu lực.
                               Đồ thị 3: CPI và lãi suất tái cấp vốn
-         Phân tích sự biến động của lãi suât tái chiết khấu và CPI.
Đồ thị 4: CPI và lãi suất tái chiết khấu
    -Phân tích sự biến động của lãi suất OMO với CPI
Đồ thị 5: CPI và lãi suất OMO
-Phân tích biến động của Lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt trong thanh toán bù trừ
Đồ thị 6: CPI và lãi suất qua đêm
Duy trì quá lâucơ chế cố định “trần” lãi suất huy động và “thả nổi” lãi suất cho vay thỏa thuận,  tạo cơ sở pháp lý thuận lợi cho các TCTD đẩy lãi suất cho vay lên tối đa,  làm tăng rủi ro tài sản có và nợ xấu của cả hệ thống NHTM và các TCTD khác.
Từ tháng 1/2011-4/2012, NHNN quy định “trần” lãi suất huy động cố định theo xu hướng giảm dần (14%/năm, 13%/năm, 12%/năm, 11%/năm) và lãi suất cho vay thỏa thuận ở tất cả các đối tượng và kỳ hạn vay vốn của
khách hàng.
Tháng 5/2012, NHNN quy định “trần” lãi suất huy động (11%/năm) và “trần” lãi suất cho vay ngắn hạn theo biên độ (lãi suất cho vay = lãi suất huy động + 3%/năm) với 4 đối tượng cho vay ưu tiên, còn các đối tượng cho vay khác và cho vay trung dài hạn đều lãi suất thỏa thuận.
Từ tháng 6/2012- nay, NHNN quy định “trần” lãi suất huy động cố định (9%/năm) và “trần” lãi suất cho vay cố định(13%/năm) với 4 đối tượng sản xuất kinh doanh ưu tiên còn các đối tượng khác đều cho vay theo lãi suất thỏa thuận
Trong điều kiện kinh tế khó khăn, lợi nhuận của hầu hết các doanh nghiệp rất khí có thể cao hơm lãi suất cho vay thỏa thuận của các TCTD. Với cơ chế lãi suất cho vay thỏa thuận các khách hàng tốt không dám vay vốn,  còn các khách hàng chấp nhận được lãi suất cao là những khách hàng đang thực sự khó khăn về tài chính, hoặc có nhu cầu tài trợ cho những dự án có rủi ro rất cao.Vì vậy cơ chế lãi suất thỏa thuận chỉ mang lại lợi ích trước mắt cho TCTD,  nhưng lại tăng thêm các rủi ro do lựa chọn khách hàng, rủi ro tín dụng,  tăng nguy cơ tiềm ẩn nợ xấu,  tạo ra một danh mục tài sản có rủi ro cao.
Cố định mức lãi suất trầnhuy động vốn trong thời gian quá dài(trong suốt 12 tháng từ 3/2011-2/2012)trong khi CPI đã giảm mạnh và liên tục từ tháng 6/2011-12/2011, làm tăng áp lực thanh khoản của hệ thống,  tăng thêm các rủi ro kỳ hạn, rủi ro thanh khoản,  rủi ro đạo đức trong hệ thống Tài chính - Ngân hàng.
Nhìn vào đồ thị biểu thị quan hệ giữa CPI và lãi suất huy động vốn của các TCTD dễ thấy rằng, : đường lãi suất gần như đi ngang trong khi đường CPI biến động lên xuống hình sin với biên độ rất lớn và chu kỳ dài.
Hậu quả của cơ chế điều hành này đã gây thiệt hại cho người gửi tiền(7 tháng liên tục lãi suất tiền gửi ở mức thực âm); các NHTM phá rào trần lãi suất huy động vốn bằng mọi cách (hoa hồng,  chi tiền mặt ngoài sổ sách,  nhận ủy thác đầu tư trá hình, ..) thanh khoản căng thẳng, thị trường tiền tệ, thị trường liên Ngân hang đua nhau cạnh tranh lãi suất “ngầm”.
Trong suốt 12 tháng liên tục từ tháng 3/2011-2/2012, mức lãi suất “trần” huy động vốn của các TCTD vẫn cố định 1, 17%/tháng(14%/năm).Trong khi CPI biến động liên tục hàng tháng với biên độ lớn và xu thế giảm rõ rệt lần lượt là:2.25%;3.53%;2.43%;1.22%;1.32%;1.07%;0.95%;0.42%;0.45%;0.63%;1.00%; 1.37%.Kết quả là rủi ro kỳ hạn, rủi ro thanh khoản của các TCTD tăng lên do tiền gửi huy động được của các NHTM chủ yếu là không kỳ hạn và tiền gửi có kỳ hạn 1-2 tháng,  tiền gửi từ 3 -12 tháng chiểm tỷ lệ rất ít;tiền gửi trung dài hạn trên 12 tháng không thể huy động được.
Đồ thị 8: CPI và lãi suất huy động

II.Chính sách dự trữ bắt buộc

Thời gian áp dụng
Loại TCTD
Tiền gửi VND
Tiền gửi ngoại tệ
Không kỳ hạn và dưới 12 tháng
Từ 12 tháng trở lên
Không kỳ hạn và dưới 12 tháng
Từ 12 tháng trở lên
12/5/2008
Các NHTM Nhà nước (không bao gồm NHNo & PTNT), NHTMCP đô thị, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh, công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính


6%


2%


7%


3%
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
3%
1%
6%
2%
NHTMCP nông thôn, ngân hàng hợp tác, Quỹ tín dụng nhân dân Trung ương
1%
1%
6%
2%
TCTD có số dư tiền gửi phải tính     dự trữ bắt buộc dưới 500 triệu đồng, QTĐN cơ sở, Ngân hàng Chính sách xã hội
5/11/2008
Các NHTM Nhà nước (không bao gồm NHNo & PTNT), NHTMCP đô thị, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh, công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính


10%


4%


9%


3%
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
7%
3%
8%
2%
NHTMCP nông thôn, ngân hàng hợp tác, Quỹ tín dụng nhân dân Trung ương
3%
3%
8%
2%
TCTD có số dư tiền gửi phải tính     dự trữ bắt buộc dưới 500 triệu đồng, QTĐN cơ sở, Ngân hàng Chính sách xã hội




2/2010
Các NHTM Nhà nước (không bao gồm NHNo & PTNT), NHTMCP đô thị, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh, công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính

4%

2%

7%

3%
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
3%
1%
6%
2%
NHTMCP nông thôn, ngân hàng hợp tác, Quỹ tín dụng nhân dân Trung ương
3%
1%
6%
2%
TCTD có số dư tiền gửi phải tính     dự trữ bắt buộc dưới 500 triệu đồng, QTĐN cơ sở, Ngân hàng Chính sách xã hội

0%

0%

0%

0%
9/2011
Các NHTM Nhà nước (không bao gồm NHNo & PTNT), NHTMCP đô thị, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh, công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính 

 3%

1% 

 8%

 6%
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn 

 1%

 1%

 7%

 5%
NHTMCP nông thôn, ngân hàng hợp tác, Quỹ tín dụng nhân dân Trung ương 

 1%

 1%

 7%

 5%
TCTD có số dư tiền gửi phải tính dự trữ bắt buộc dưới 500 triệu đồng, QTĐN cơ sở, Ngân hàng Chính sách xã hội 

 0%

 0%

 0%

 0%


1.Thành tựu
Cơ chế điều hành tỷ lệ dự trữ bắt buộctheo Quyết định số 379/QĐ-NHNN áp dụng từ ngày 24/2/2009 (đối với VND) và Quyết định 79/QĐ-NHNN áp dụng từ 01/2/2010 (đối với ngoại tệ),  thông tư 20/2010/TT-NHNN ngày 29/9/2010.
Theo cơ chế nói trên, chính sách dự trữ bắt buộc được căn cứ vào tính chất kỳ hạn tiền gửi(ngắn, trung,  dài hạn), loại tiền gửi(VND và ngoại tệ) và ưu tiên đối tượng cho vay nông nghiệp, nông thôn. 
Đối với TCTD có tỷ trọng dư nợ cho vay phát triển nông nghiệp nông thôn trên tổng dư nợ bình quân cuối các quý trong năm tài chính liền kề từ 40% đến dưới 70% và trên 70%: Tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng đồng Việt Nam bằng 1/5 (một phần năm)  và 1/20 so với tỷ lệ dự trữ bắt buộc thông thường tương ứng với từng kỳ hạn tiền gửi.
Từ năm 2009 -2012,  tỷ lệ dự trữ bắt buộc của các TCTD đối với tiền gửi VND cố định 3% và không thay đổi.
  2.Hạn chế
Một số vấn đề hạn chế về sử dụng công cụ tỷ lệ dự trữbắt buộc trong giai đoạn 2011-2012 :
NHNN cố định tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi VND trong suốt thời gian dài từ 2009-2012 trong cả quá trình lạm phát cao năm 2011 và xu hướng thiểu phát 6 tháng 2012.Công cụ tỷ lệ DTBB không phát huy tác dụng điều chỉnh nguồn vốn thanh toán và cho vay của TCTD.Vì vậyhạn chế vai trò, tác dụng của tỷ lệ dự trữ bắt buộc trong việc điều chỉnh lãi suất cho vay,  lượng tiền cung ứng và hệ số tạo tiền của hệ thống TCTD.
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc là công cụ có tác động rất mạnh đến khối lương tiền cung ứng trong lưu thông theo cấp số nhân,  là công cụ kiểm soát lạm phát có hiệu quả nhất,  nhưng NHNNkhông tăng hoặc  giảm tỷ lệ trong suốt thời gian dài,  trong bối cảnh lạm phát cao(2011) và xu hướng thiểu phát(6 tháng đấu năm 2012), nên không phát huy được vai trò và tác dụng của công cụ này để thực hiện mục tiêu chính sách tiền tệ.
Để phát huy được vai trò và tác dụng của công cụdự trữ bắt buộc phải điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc để tác động đến cả khối lượng và lãi suất cho vay tín dụng của các NHTM, từ đó tác động đến khả năng cung ứng tín dụng và khả năng tạo tiền của hệ thống NHTM theo mục tiêu của chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ.
Trong giai đoạn lãi suất cho vay còn ở mức cao như thời gian vừa qua, nếu tăng tỷ lệ DTBB sẽ tăng chi phí đầu vào của nguồn vốn cho vay làm tăng lãi suất cho vay của các TCTD, nhưng NHNN có thể tăng lãi suất tiền gửi DTBB lên một mức hợp lý để bù đắp chi phí huy động vốn cho các TCTD, giảm áp lực tăng lãi suất cho vay.
Chính sách dự trữ bắt buộc áp dụng một mức chung cho tất cả các NHTM,  không căn cứ vào quy mô vốn và tài sản, chất lượng hoạt động và mức độ an toàn của từng ngân hàng,  chưa phù hợp với quy mô và trình độ phát triển không đồng đều của các NHTM VN, làm cho công cụ dự trữ bắt buộc hoàn toàn trở thành vô tác dụng.
Đặc điểm quan trọng của hệ thống NHTM của VN là trình độ phát triển không đồng đều về lịch sử phát triển,  quy mô vốn chủ sở hữu,  quy mô tài sản,  chất lượng hoạt động và mức độ an toàn . Trong đó nhóm 4 NHTM cổ phần Nhà nước và  Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (Agribank) có kinh nghiệm hoạt động kinh doanh 24 năm và chiếm khoảng gần 50% thị phần trên mọi lĩnh vực hoạt động,  nhóm G12 (12 ngân hàng TMCP lớn nhất) chiếm thị phần khoảng 80-85%,  nhóm 13 NHTMCP tư nhân, quy mô vốn rất nhỏ bé, mức độ an toàn hoạt động rất thấp,  mới chuyển đổi từ Hợp tác xã tín dụng và Ngân hàng Nông thôn lên từ những năm 2002-2006.
Theo quan điểm của một số chuyên gia và NHNN,  thời gian qua,  do hệ thống ngân hàng thiếu thanh khoản nên nếu Ngân hàng Nhà nước tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc thì sẽ gây khó khăn cho nền kinh tế.
Quan điểm trên rất đúng với nhóm 13 NHTM cổ phần nông thôn mới chuyển đổi thành NHTM triền miên khó khăn thanh khoản. Nhưng đối với nhóm G12, gồm 12 NHTM chiếm gần 80-85% thị phần không phải là các NHTM  thiếu thanh khoản, thậm nhiều NHTM thừa tiền đi gửi vào các TCTD khác.Mặt khác, trong suốt thời gian quá dài 2009- 2012,  hệ thống NHTM không phải thiếu thanh khoản liên tục.Vì vậy, cần phải tiếp tục nghiên cứu bổ sung hoàn thiện cơ chế điều hành công cụ dự trữ bắt buộc, để phát huy hiệu quả cao hơn
III.Nghiệp vụ thị trường mở
1.Thành tựu
Đánh giá một  cách khách quan,  trong năm 2012, NHNN điều hành nghiệp vụ thị trường mở OMO chủ động, linh hoạt và hiệu quả hơn thời gian trước đó.
2.Hạn chế
Quy chế nghiệp vụ thị trường mở chậm được điều chỉnh, sửa đổi theo sự đổi mới của môi trường pháp lý, tạo ra những rủi ro về pháp lý và kinh tế cho các TCTD.
Quy chế nghiệp vụ thị trường mở ban hành theo01/2007/QĐ- NHNN và   Quyết định 27/2008/QĐ-NHNN sửa đổi bổ sung QĐ 01/2007/QĐ-NHNN chưa được điều chỉnh cho phù hợp với sự thay đổi của các quy định pháp luật khác có liên quan như: Nghị định 01/2011/NĐ-CP ngày 5/1/2011 về phát hành trái phiếu Chính phủ, trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh, trái phiếu của chính quyền địa phương; Luật sửa đổi, bổ sung Luật Chứng khoán(Luật 62/2010/QH 12); Luật NHNN Việt Nam (luật 46/2010/QH12) và Luật Các TCTD (Luật 47/2010/QH12),
Nhiều vấn đề cần phải bổ sung sửa đổi để đồng bộ với các văn bản pháp luật mới (đặc biệt là các quy định mới về phát hành giấy tờ có giá, tiêu chuẩn giấy tờ có giá,  định giá giấy tờ có giá, ..)nếu không sớm điều chỉnh sẽ phát sinh các rủi ro về pháp lý,  rủi ro về kinh tế cho các TCTD và làm giảm hiệu quả của công cụ Thị trường mở.
Cơ chế mua bán giấy tờ có giá trên thị trường mở hiện hành chủ yếu là đấu thầu khối lượng, các mức lãi suất giao dịch thực tế phản ánh chưa chính xác quan hệ cung cầu vốn, không khuyến khích  cạnh tranh thực sự giữa các TCTD với mục tiêu hạ lãi suất thị trường.
Phương thức mua bán trong thời gian qua chủ yếu là đấu thầu khối lượng: là việc xét thầu trên cơ sở khối lượng dự thầu của các tổ chức tín dụng,  khối lượng giấy tờ có giá Ngân hàng Nhà nước cần mua hoặc bán và lãi suất do Ngân hàng Nhà nước thông báo.
Trong giai đoạn lạm phát rất thấp(từ tháng 3/2012-8/2012), lãi suất cho vay đối với nền kinh tế còn quá cao so với CPI,  các thành viên đủ điều kiện tham gia thị trường mở là các NHTM lớn,  thanh khoản đảm bảo,  dư vốn khả dụng không cho vay được, phương thức xét thầu khối lượng chưa phù hợp, không  tạo ra được sự cạnh tranh về lãi suất của các TCTD, để hạ lãi suất
thị trường.
Phương thức xét thầu khối lượng nhằm mục đích hỗ trợ thanh khoản, tạo điều kiện cho các thành viên tham gia dự thầu đều trúng thầu, chỉ phù hợp với các TCTD nhỏ, khó khăn về thanh khoản. Tuy nhiên đối với các NHTM nhỏ, yếu kém, thanh khoản khó khăn,  không sở hữu nhiều các giấy tờ có giá, không đủ điều kiện thành viên để tham gia thị trường mở.
Khối lượng giao dịch bị hạn chế trong mức cung tiền mục tiêu hàng năm và khả năng, điều kiện tham gia thị trường mở của các TCTD, làm giảm hiệu quảđiều tiết, tác dụng của công cụ thị trường mở.
Trong năm 2011, lạm phát cao và NHNN thực hiện, chính sách tiền tệ thắt chặt,  do đó,  các công cụ thị trường mở phải nhằm mục đích hút tiền về. Tuy nhiên, các TCTD đang khó khăn thanh khoản và thiếu vốn để đảm bảo mục tiêu tăng trưởng tín dụng, nên biện pháp hút tiền về qua OMO không thực hiện được.
 Trong 2012, lạm phát giảm xuống nhanh dưới một con số, tăng trưởng tín dụng quá thấp so với mục tiêu,  công cụ thị trường mở phải nhằm mục tiêu bơm tiền ra để hạ lãi suất, kích thích tăng trưởng tín dụng, nhưng lại mâu thuẫn với khả năng hấp thụ vốn của doanh nghiệp rất thấp, các TCTD thừa tiền không cho vay được.
IV. Tỉ giá hối đoái
2008-2009
Diễn biến tỷ giá ngoại tệ của Việt Nam từ đầu năm 2008 đến nay là hết sức phức tạp. Trong quý 1/2008, có những lúc tỷ giá USD liên ngân hàng xuống dưới 16.000 và tỷ giá thị trường tự do thậm chí còn thấp hơn trong ngân hàng. Nhưng chỉ qua đầu quý 2, tỷ giá lại tăng đến chóng mặt, có lúc đã lên tới 19.500. 
NHNN đã quyết định nới biên độ dao động từ +1% lên +2% (từ ngày 26/06/08) đồng thời triển khai hàng loạt các biện pháp khác: kiểm soát chặt các đại lý thu đổi ngoại tệ, tăng cường truyền thông, công bố dự trữ ngoại hối của Việt Nam (điều chưa hề có tiền lệ tại Việt Nam), … Nhờ đó, tỷ giá đã dần dịu lại và duy trì ở mức ~ 16.500 cho đến hết quý 3/08.
Từ cuối năm 2008 đến nay, suy thoái kinh tế đã tác động mạnh đến nguồn cung ngoại tệ của Việt Nam; cộng thêm tâm lý găm giữ ngoại tệ của dân cư và các thành phần kinh tế đã dẫn đến tình trạng khan hiếm ngoại tệ, làm cho tỷ giá ngoại tệ luôn nóng, phố biến ở mức ~ 18.000. NHNN đã thêm hai lần điều chỉnh biên độ dao động tỷ giá (+3% từ 06/11/08 và +5% từ 23/03/09) và triển khai một số công cụ can thiệp khác. Vì vậy, tỷ giá ngoại tệ đang dần ổn định, nhu cầu ngoại tệ trong thanh toán những mặt hàng thiết yếu được đáp ứng cơ bản đầy đủ.
1.Thành tựu
Trong 2 tháng đầu năm 2013
NHNN điều hành linh hoạt các kênh cung ứng tiền để kiểm soát tiền tệ hợp lý. Trong điều kiện cung cầu ngoại tệ cải thiện, xu hướng găm giữ ngoại tệ giảm, NHNN đã mua một lượng lớn ngoại tệ để tăng dự trữ ngoại hối Nhà nước, đồng thời ổn định tỷ giá (qua đó không làm VND mạnh lên, gây khó khăn cho xuất khẩu); song song với mua ngoại tệ giữ ổn định tỷ giá, NHNN tiếp tục thực hiện trung hòa lượng tiền đưa ra mua ngoại tệ thông qua nghiệp vụ phát hành tín phiếu NHNN, giảm áp lực cung tiền tới lạm phát. Bên cạnh đó, NHNN cũng thực hiện thu nợ đối với các khoản cho vay tái cấp vốn đến hạn.
V.Chính sách tái cấp vốn
2011-2012
Trong thời gian qua,  công cụ tái cấp vốn chưa đủ tiềm lực vốn và điều kiện để phát huy hiệu quả,  vai trò cung ứng vốn ngắn hạn và phương tiện thanh toán cho các TCTD, chưa tác động được nhiều đến cung cầu vốn và các loại lãi suất trên thị trường.
Nguyên nhân chủ yếu do nguồn vốn cho vay hạn hẹp, NHNN chỉ được cho vay tái cấp vốn trong một giới hạn nhất định,  nằm trong hạn mức tăng tổng phương tiện thanh toán M2 đã được Chính phủ duyệt hàng năm;nhiều TCTD cần vay nhưng không điều kiện được vay tái cấp vốn; một số TCTD đủ điều kiện vay vốn nhưng không có nhu cầu vay. Do đó, doanh số cho vay và dư nợ tái cấp vốn đối với các TCTD không lớn;mức độ tác động tới lãi suất và cung cầu vốn trên thị trường hạn chế.
Trong điều kiện lạm phát đang bùng phát cao từ 1/2011- 2/2012,  việc lựa chọn sử dụng công cụ tái cấp vốn tuy giải quyết được khó khăn thanh khoảncho một số TCTD, nhưnglàm tăng thêm tiền cung ứng trong lưu thông, gây áp lực thêm cho mục tiêu kiểm soát lạm phát.
Công cụ tái cấp vốn chỉ phát huy hiệu quả cao trong điều kiện lạm phát bình thường và mục đích cho vay nhằm giải quyết khó khăn chi trả có tính chất tạm thời. Đối với các trường hợp mất thanh khoản có nguyên nhân từ rủi ro cơ cấu kỳ hạn nguồn vốn và sử dụng, chất lượng tài sản sản thấp, nợ xấu cao như các TCTD nông thôn mới chuyển đổi thành NHTM không phải là sự mất thanh khoản có tính tạm thời và phải giải quyết bằng biện pháp tái cơ cấu tài chính, tái cơ cấu tài sản nợ, tài sản có mới đúng bản chất.
Trong điều kiện lạm phát cao và thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ,  nếu sử dụng công cụ tái cấp vốn  đểbơm vốn một cách thường xuyên nhằm giải quyết khó khăn thanh khoản triền miên cho các NHTM sẽ , không phải là sự lựa chọn hợp lý .
Mức lãi suất tái cấp vốn giai đoạn 1/2011-3/2012 thấp hơn nhiều so với lãi suất cho vay thỏa thuận của các TCTD và lãi suất thị trường,  tạo cơ hội cho một số TCTD có điều kiện vay được nguồn vốn giá rẻ từ nguồn tái cấp vốn có hiệu quả hơn huy động vốn từ dân cư và làm gia tăngrủi ro đầu tư tiền gửi trên thị trường tiền tệ.
Giai đoạn từ tháng 1/2011-3/2012, các lãi suất tái cấp vốn giao động từ 7-15%/năm,  có những thời điểm[1]lãi suất cho vay thỏa thuận các ngân hàng vay nhau trên thị trường liên ngân hàng 25-30%/năm, NHTM cho doanh nghiệp vay vốn với lãi suất thỏa thuận 22-25% năm.Chênh lệch 2 loại lãi suất quá lớn sẽ tạo ra cơ hội phát triển các hoạt động kinh doanh chênh lệch lãi suất trên thị trường tiền tệ dưới nhiều hình thức đầu tư tiền gửi khác nhau, làm bất ổn thêm thị trường tiền tệ.
Với mức chênh lệch cao giữa lãi suất cho vay thỏa thuận của các TCTD với khách hàng và lãi suất cho vay thỏa thuận giữa các TCTD với nhau so với lãi suất tái cấp vốn như trên, sẽ tạo ra những cơ hội cho một số TCTD tìm mọi cách để vay tái chiết khấu có lợi hơn huy động vốn từ nền kinh tế,  hoặc để cho vay lại trên thị trường với lãi suất cao để hưởng chênh lệch lãi suất.
VI. Kiểm soát hạn mức tín dụng
Hạn mức tín dụng là công cụ can thiệp trực tiếp, mang tính hành chínhcủa NHNN,  được sử dụng để khống chế tổng dư nợ tín dụng, qua đó khống chế tổng khối lượng tiền cung ứng cho nền kinh tế.
Công cụ này thực sự phát huy hiệu quả khi tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế tăng cao và các công cụ gián tiếp khác tỏ ra kém hiệu lực.
Năm 2011, NHNN đưa ra mục tiêu tăng trưởng tín dụng chung cho toàn hệ thống các TCTD, không phân bổ hạn mức theo từng TCTD
Năm 2012 là lần đầu tiên NHNN quyết định phân bổ hạn mức tín dụng cho từng NHTM theo các tiêu chí: chất lượng tài sản nợ,  tài sản có,  quy mô vốn,  năng lực quản trị điều hành,  quản trị rủi ro,  chất lượng nhân lực và tuân thủ các quy định.Theo đó,  các nhóm được phân loại bởi NHNN được áp dụng các hạn mức như sau: Nhóm thứ 1tăng trưởng tín dụng ở mức tối đa 17%; nhóm thứ 2 tăng trưởng tín dụng ở mức tối đa 15%; nhóm 3 được tăng trưởng 8%; nhóm 4 thuộc diện phải cơ cấu lại,  không được tăng trưởng tín dụng.
Đến tháng 6/2012,  tổng dư nợ tín dụng toàn hệ thống ngân hàng tăng 1, 51% so với cuối năm 2011 (kế hoach năm 2012 là 12%),  trong đó 69 TCTD có mức tăng trưởng âm. Có 23 TCTD đề nghị mức tăng trưởng tín dụng vượt chỉ tiêu,  có 29 TCTD xây dựng kế hoạch tăng trưởng bằng mức chỉ tiêu thông báo,  có 10 TCTD xây dựng kế hoạch tăng trưởng tín dụng thấp hơn.
Tính đến thời điểm hiện tại, Ngân hàng Nhà nước đã cho phép tăng chỉ tiêu đối với 10 TCTD có tính hình tài chính lành mạnh,  đã có tăng trưởng tín dụng đạt trên 50% chỉ tiêu thông báo của Ngân hàng Nhà nước từ đầu năm.
Công cụ  hạn mức tăng trưởng tín dụng mà NHNN đưa ra trong 2012 đã phát huy tác động tích cực thúc đẩy các TCTD đổi mới và tái cơ cấu hoạt động theo quan điểm vàmục tiêu của chính sách tiền tệ của Chính phủ trên các
mặt sau:
- Thúc đẩy các NHTM phấn đấu nâng cao chất lượng, hiệu quả và các chỉ số an toàn hoạt động để được xếp hạng tín nhiệm cao và có được hạn mức tăng trưởng cao.
- Điều chỉnh, hạn chế tốc độ tăng trưởng tín dụng cao hơn tăng trưởng huy động vốn, góp phần cải thiện tính thanh khoản của từng ngân hang và cả hệ thống hệ thống, giảm áp lực lạm phát.
- Tác động mạnh mẽ  và có hiệu quả đến mục tiêu  tái cơ cấu, sát nhập các NHTM yếu kém, tăng vốn chủ sở hữu, nâng cao năng lực cạnh tranh.
Tuy nhiên, việc sử dụng công cụ kiểm soát hạn mức tín dụng của NHNN trong thời gian qua đã cho thấy một số vấn đề cần nghiên cứu bổ sung nhằm phát huy hiệu quả cao hơn:
Thời điểm áp dụng công cụ hạn mức tín dụng chưa  phù hợp với giai đoạn  suy kiệt tín dụng và giảm tổng cầu của nền kinh tế,  nên công cụ hạn mức tín dụng không phát huy được tác dụng với nhiều TCTD.
Công cụ hạn mức tín dụng được áp dụng cho từng TCTD trong năm 2012, cảthời điểm và điều kiện không phù hợp với diễn biến của kinh tế vĩ mô, làm vô hiệu hóa tác dụng của hạn mức tín dụng.
Trong cả năm 2011, dư nợ tín dụng tăng trưởng 14%/, bằng 70% mục tiêu đề ra( 20%) và giảm -56% so với mức tăng trưởng  của 2010( 31.19%).
Từ tháng 3/2011-7/2012, CPI giảm liên tục xuống mức âm  theo các tháng(0.16;0.05;0.18;-0.26;-0.29 ),  CPI cả năm 2012 tăng rất thấp, ước  7, 0%.
Tổng dư nợ cho vay nền kinh tế 2012 ước tăng +5.5%, đạt hơn 30% so với mục tiêu(+15% -17%/năm) và chỉ bằng 39% mức tăng trưởng tín dụng 2011.
Trong 2012tổng cầu của nền kinh tế đang trong suy giảm, nền kinh tế không hấp thu được tín dụng, tổng phương tiện thanh toán đang giảm thấp, công cụ hạn mức tín dụng trở nên vô tác dụng.
Công cụ hạn mức tín dụng  là sự can thiệp hành chính,  trực tiếp để khống chế khối lượng tín dụng của hệ thống TCTD đối với nền kinh tế. Công cụ này chỉ phát huy hiệu quả khi tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế tăng cao và các công cụ gián tiếp khác không phát huy được hiệu quả
Chưa xây dựng được bộ tiêu chí phân loại các TCTD và phương pháp tính toán các tiêu chí phân loại để làm căn cư phân bổ hạn mức tín dụng cho từng TCTD.
Năm 2012 là năm đầu tiên NHNN thực hiện công cụ kiểm soát hạn mức tín dụng cho từng TCTD.Việc phân loại các nhóm TCTD được NHNN căn cứ vào những yếu tố định tính, định lượng nào đó nhưng NHNN không công khai các tiêu chí xếp hạng, phương pháp tính toán và bảng xếp hạng .Vì vậy các TCTD cho rằng chưa có cơ sở thuyết phục trong việc xếp loại các TCTD để làm căn cứ phân hạn mức tín dụng.Trong điều kiện ở Việt Nam hiện nay,  các tiêu chí và phương pháp đánh giá,  xếp hạng tín nhiệm các TCTD còn rất nhiều bất cập,  chất lượng xếp hạng tín nhiệm của một vài tổ chức công bố chưa được thị trường công nhận. Vì vậy căn cứ để đánh giá, xếp loại, phân hạng các TCTD làm căn cứ cho phân bổ hạn mức tín dụng còn nhiều vấn đề chưa đảm bảo
chính xác.








[1]Thống đốc NHNN trả lời chất vấn đại biểu quốc hội ngày 13/11/2012

Comments

Popular posts from this blog

Gà rim mật ong

Phương pháp tính chỉ số chứng khoán và một số chỉ số chứng khoán tiêu biểu

Phân tích đầu tư chứng khoán: Công ty cổ phần Vĩnh Hoàn VHC