Thực trạng nghiệp vụ cho vay của NHTM Việt Nam
Cho vay là hoạt động đem lại nguồn thu
chủ yếu của ngân hàng thương mại. Hoạt động cho vay của NHTM phải an toàn, hiệu
quả thì NHTM mới tồn tại và phát triển. Muốn vậy các khâu của hoạt động cho vay
phải tuân thủ các nguyên tắc nhất định và thực hiện trôi chảy để NHTM thu hồi
được vốn và lãi khi kết thúc thời hạn cho vay. Mục đích của chương này là nắm
được những nguyên tắc cơ bản trong cho vay, điều kiện cho vay, thời hạn cho
vay, phương pháp cho vay…của NHTM và những biện pháp bảo đảm an toàn trong hoạt
động cho vay của NHTM.
Khái niệm về cho vay:
Cho vay là sự chuyển nhượng tạm thời một
lượng giá trị từ người sở hữu (NHTM) sang người sử dụng (người vay), sau một thời
gian nhất định lại quay về với lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu.
Phân loại cho vay của NHTM:
Trong nền kinh tế thị trường hoạt động
cho vay của NHTM rất đa dạng và phong phú với nhiều loại hình tín dụng khác
nhau. Việc áp dụng hình thức cho vay nào là tùy thuộc vào đặc điểm kinh tế của
đối tượng sử dụng vốn tín dụng nhằm sử dụng và quản lý vốn tín dụng có hiệu quả
và phù hợp với sự vận động cũng như đặc điểm kinh tế khác nhau của đối tượng
tín dụng.
Trên thực tế việc phân loại cho vay theo
các tiêu thức sau:
a. Phân theo mục đích sử dụng vốn:
- Cho vay phục vụ sản xuất kinh
doanh công thương nghiệp
- Cho vay tiêu dùng cá nhân
- Cho
vay mua bán bất động sản
- Cho
vay sản xuất nông nghiệp
- Cho
vay kinh doanh xuất nhập khẩu
b. Phân loại theo thời hạn tín dụng
- Cho
vay ngắn hạn: là loại cho vay có thời hạn dưới 1 năm. Mục đích của loại cho vay
này thường là nhằm tài trợ cho việc đầu tư vào tài sản lưu động
- Cho
vay trung dài hạn: là loại cho vay có thời hạn trên 1 năm. Mục đích của loại
cho vay này là nhằm tài trợ cho việc đầu tư vào tài sản cố định, đầu tư vào các
dự án đầu tư
c. Phân loại theo mức độ tín nhiệm của khách hàng
- Cho
vay không có bảo đảm: Là loại cho vay không có tài sản thế chấp, cầm cố, hoặc bảo
lãnh của người khác mà chỉ dựa vào uy tín của bản thân khách hàng vay vốn để
quyết định cho vay
- Cho
vay có bảo đảm: là loại cho vay dựa trên cơ sở các bảo đảm cho tiền vay như thế
chấp, cầm cố, hoặc bảo lãnh của một bên thứ ba nào khác.
d. Phân loại theo phương thức cho vay
- Cho
vay từng lần
- Cho
vay theo hạn mức tín dụng
e. Phân loại theo phương thức hoàn trả nợ vay
- Cho
vay trả nợ một lần khi đáo hạn
- Cho
vay có nhiều kỳ hạn trả nợ, cho vay trả góp
- Cho
vay trả nợ nhiều lần nhưng không có kỳ hạn trả nợ cụ thể mà tùy theo khả năng của
khách hàng để trả nợ bất cứ lúc nào.
I.
QUI ĐỊNH PHÁP LÝ VỀ CHO VAY:
Các qui định pháp lý về hoạt động cho vay của NHTM tập trung vào các vấn
đề sau:
1.
Nguyên tắc cho vay:
- Sử dụng vốn vay đúng mục đích đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng:
Việc sử dụng vốn vay vào mục đích gì do hai bên, ngân hàng và khách hàng
thỏa thuận và ghi vào trong hợp đồng tín dụng. Đảm bảo sử dụng vốn vay đúng mục
đích thỏa thuận nhằm đảm bảo hiệu quả sử dụng vốn vay và khả năng thu hồi nợ
sau này. Do vậy, về phía ngân hàng trước khi cho vay cần tìm hiểu rõ mục đích
vay vốn của khách hàng, đồng thời phải kiểm tra xem khách hàng có sử dụng vốn
vay đúng như mục đích đã cam kết hay không. Điều này rất quan trọng vì việc sử
dụng vốn vay đúng mục đích hay không có ảnh hưởng rất lớn đến khả năng thu hồi
nợ vay sau này. Việc khách hàng sử dụng vốn vay không đúng mục đích dễ dẫn đến
thất thoát và lãng phí khiến vốn vay không tạo ra được ngân lưu để trả nợ cho
ngân hàng.
Về phía khách hàng, việc sử dụng vốn vay đúng mục đích góp phần nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn vay, đồng thời giúp doanh nghiệp đảm bảo khả năng hoàn trả
nợ cho ngân hàng. Từ đó, nâng cao uy tín của khách hàng đối với ngân hàng và củng
cố quan hệ vay vốn giữa khách hàng và ngân hàng sau này.
- Phải hoàn trả gốc và lãi đúng hạn:
Hoàn trả nợ gốc và lãi vốn vay là một nguyên tắc không thể thiếu trong
hoạt động cho vay. Điều này xuất phát từ tính chất tạm thời nhàn rỗi của nguồn
vốn mà ngân hàng sử dụng để cho vay. Đại đa số nguồn vốn mà ngân hàng sử dụng để
cho vay là vốn huy động từ khách hàng gửi tiền, do đó, sau khi cho vay trong một
thời gian nhất định, khách hàng vay tiền phải hoàn trả lại cho ngân hàng để
ngân hàng hoàn trả lại cho khách hàng gửi tiền. Hơn nữa, bản chất của quan hệ
tín dụng là quan hệ chuyển nhượng tạm thời quyền sử dụng vốn vay nên sau một thời
gian nhất định vốn vay phải được hoàn trả , cả gốc và lãi.
- Việc đảm bảo tiền vay phải thực hiện theo quy định của
chính phủ:
Quá trình cung ứng vốn tín dụng ngắn hạn của ngân hàng
thương mại đối với nền kinh tế sẽ làm tăng sức mua của xã hội, làm tăng khối lượng
tiền trong nền kinh tế, làm tăng áp lực đối với lượng hàng hóa ở trên thị trường.
ngoài ra do tính chất vận động của vốn tín dụng là gắn liền với sự vận động của
vật tư hàng hóa, gắn liền với hoạt động sản xuât kinh doanh của các đơn vị. do
đó cần thực hiện nguyên tắc bảo đảm giá trị vật tư hàng hóa tương đương cho
ngân hàngững khoản tín dụng đang thực hiện. bảo đảm tiền vay có thể thực hiện bằng
thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của bên thứ ba, hoặc bảo đảm bằng chính tài sản
được tạo ra do sử dụng vốn vay hoặc bảo đảm bằng tín chấp.
2.
Điều kiện vay vốn:
- Địa vị pháp lý của khách hàng vay vốn: Khách hàng vay vốn phải có năng
lực pháp luật, năng lực hành vi dân sự và chịu trách nhiệm dân sự theo Luật dân
sự.
- Có khả năng tài chính và trả nợ đúng hạn theo hợp đồng tín dụng đã ký.
- Mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp
- Có tài liệu chứng minh khả năng sử dụng vốn vay phù hợp với qui định của
pháp luật (ví dụ như có dự án đầu tư được cấp có thẩm quyền phê duyệt) và khả
năng hoàn trả vốn vay.
3.
Đối tượng cho vay:
Đối tượng cho vay của ngân hàng thương mại là các tổ chức cá nhân có nhu
cầu vốn trong hoạt động sản xuất kinh doanh, đầu tư, tiêu dùng… Theo qui định của
Luật các tổ chức tín dụng: Tổ chức tín dụng không được cho vay các nhu cầu vốn
để thực hiện các việc sau:
- Mua sắm các tài sản và các chi phí hình thành nên tài sản mà pháp luật
cấm mua bán chuyển nhượng, chuyển đổi.
- Thanh toán các chi phí cho việc thực hiện các giao dịch mà pháp luật cấm.
- Đáp ứng các nhu cầu tài chính của các giao dịch mà pháp luật cấm.
Ø Đối tượng không
được vay
- Thành viên hội đồng quản trị, ban kiểm
soát, tổng giám đốc, phó tổng giám đốc của ngân hàng
-Bố, mẹ, vợ, chồng, con của thành viên hội
đồng quản trị, Ban kiểm soát, Tổng giám đốc, phó tổng giám đốc của ngân hàng.
4. Qui định về bảo đảm an
toàn trong hoạt động cho vay:
Hoạt động cho vay luôn tiềm ẩn rủi ro, để
đảm bảo an toàn hiệu quả trong cho vay và tránh rủi ro Luật pháp đã qui định những
vấn đề về nguyên tắc cho vay, các hạn chế để đảm bảo an toàn tín dụng, hợp đồng
tín dụng, xét duyệt cho vay, kiểm tra việc sử dụng vốn vay. Để hoạt động cho
vay của ngân hàng được lành mạnh và có hiệu quả, các NHTM phải làm tốt việc kiểm
tra, đánh giá khả năng hoàn trả vốn vay của người vay vốn
- Các hạn chế để đảm bảo an toàn tín dụng
nó qui định giới hạn cho vay của NHTM đối với mỗi khách hàng. Qua đó NHTM hạn
chế được việc tập trung vốn vào một số ít khách hàng, một số ngành, một số lĩnh
vực kinh doanh nhờ đó tránh được rủi ro và phân tán rủi ro tín dụng. Tổng dư nợ cho vay đối với một khách hàng
không vượt quá 15% vốn tự có của ngân hàng
- Các biện pháp bảo đảm trong cho vay nhằm
phòng ngừa rủi ro, tạo cơ sở kinh tế và pháp lý để thu hồi được nợ vay.
Mục đích:
- Nhằm nâng cao trách nhiệm trả nợ của
khách hàng
- Nhằm phòng ngừa gian lận
- Nhằm phòng ngừa rủi ro
Điều kiện để tài sản được coi là đảm bảo
tín dụng
- Tài sản phải thuộc quyền sở hữu hợp
pháp của khách hàng vay vốn
- Tài sản phải được pháp luật cho phép
chuyển nhượng hợp pháp
- Tài sản phải có thị trường tiêu thụ.
Đây là điều kiện cần thiết để ngân hàng có thể bán hoặc phát mãi tài sản khi
khách hàng không trả nợ được
Các hình thức bảo đảm tín dụng
- Tín chấp
- Bảo đảm bằng tài sản
- Bảo đảm tín dụng bằng tài sản thế chấp
- Bảo đảm tín dụng bằng tài sản cầm cố
- Bảo đảm tín dụng bằng tài sản hình
thành từ vốn vay
- Bảo đảm tín dụng bằng hình thức bảo
lãnh
5. Hợp đồng tín dụng:
Hợp dồng tín dụng là văn bản pháp lý về
mối quan hệ tín dụng giữa NH cho vay và người đi vay. Là cơ sở để NHTM thực hiện
cho vay, quản lý khoản vay, thu hồi nợ và xử lý các khiếu nại (nếu có).
6. Xét duyệt cho vay, kiểm
tra việc sử dụng vốn vay:
Ngân hàng phải tổ chức tốt việc xét duyệt
cho vay theo nguyên tắc phân định trách nhiệm giữa khâu thẩm định và quyết định
cho vay, đồng thời NH có trách nhiệm kiểm tra, giám sát quá trình sử dụng vốn
vay và trả nợ của người vay, NH sử dụng một số biện pháp kiểm soát vốn vay như
sau:
+ Thực hiện kiểm soát và xem xét định kỳ
tất cả các loại hình cho vay theo chu kỳ (tháng, quí, năm) đối với các khoản
tín dụng lớn nhưng đồng thời cũng kiểm tra bất thường.
+ Kiểm soát thường xuyên những khoản cho
vay lớn vì rủi ro xãy ra sẽ ảnh hưởng lớn đến tình trạng tài chính của ngân
hàng.
+
Đánh giá tình hình tài chính, khả năng thanh toán, quá trình thanh toán của
khách hàng. + Chất lượng của tài sản thế chấp, cầm cố…
+ Theo dõi thường xuyên các khoản tiền
vay có vấn đề.
+ Tăng cường các biện pháp kiểm soát tín
dụng trong trường hợp tình hình kinh tế xã hội hay hoạt động của hệ thống NH có
biến động đột biến đe dọa đến sự an toàn, hiệu quả vốn tín dụng (Ex: nền kinh tế
suy giảm, xuất hiện đối thủ cạnh tranh…).
7. Thời hạn cho vay
Thời hạn cho vay là khoản thời gian được tính từ khi khách hàng bắt đầu
nhận khoảng tiền vay đầu tiên cho đến thời điểm trả hết nợ vay bao gồm gốc và
lãi vay đã được thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng giữa NHTM và Khách hàng (bên
đi vay). Thời hạn cho vay bao gồm:
+ Thời hạn giải ngân: Tính từ
khi khách hàng nhận tiền vay cho đến khi rút xong vốn vay.
+ Thời gian ân hạn: Trong hợp
đồng tín dụng có thể có hoặc không. Thời gian ân hạn thường trong giai đoạn đầu
tư XDCB, sản xuất thử nên khách hàng chưa trả nợ vay cho ngân hàng.
+ Thời hạn trả nợ: Là khoản
thời gian tính từ khi khách hàng bắt đầu trả nợ cho đến khi trả hết nợ vay cho
ngân hàng. Thời hạn trả nợ được chia thành nhiều kỳ hạn trả nợ tùy thuộc vào
tình hình thu nhập và khả năng trả nợ của khách hàng.
Số kỳ trả nợ
(Thời hạn trả nợ)
|
=
|
Tổng số tiền cho vay
|
Mức trả nợ một kỳ
|
Mức trả nợ một kỳ
|
=
|
Nguồn trả nợ một năm
|
|
Số kỳ trả nợ một năm
|
Nguồn trả nợ vay đầu tư của khách hàng từ
khấu hao TSCĐ và lợi nhuận của dự án vay vốn và các nguồn khác (nếu có).
8. LÃI
SUẤT VÀ PHÍ SUẤT TÍN DỤNG.
8.1. Lãi suất:
Lãi suất là giá cả của khoản vay, được
biểu hiện bằng tỷ lệ % trên cơ sở so sánh giữa số lợi tức thu được so với số tiền
cho vay trong một thời gian nhất định.
Trong đó lợi tức tiền vay (lãi) là khoản
tiền mà bên vay phải trả cho bên cho vay. Lãi được căn cứ tính trên số vốn vay,
thời gian và lãi suất.
a- Tính và thu (trả) lãi:
Nguyên tắc chung của việc tính và
thu lãi do ngân hàng qui định hoặc thỏa thuận với khách hàng. Có 3 cách tính,
thu (trả) lãi vay:
+
Tính, thu (trả) lãi theo định kỳ.
+ Tính, thu (trả) lãi trước.
+
Tính, thu (trả) lãi sau.
b- Phương pháp tính lãi:
+Tính lãi theo tích số:
Phương pháp này áp dụng đối với các khoản
tiền cho vay ngắn hạn theo hạn mức tín dụng, tiền gửi thanh toán, tiền gửi
không kỳ hạn. Việc tính và thu lãi vào ngày cuối tháng hoặc ngày cụ thể do ngân
hàng thỏa thuận với khách hàng.
Số tiền lãi
|
=
|
∑Tích số tính lãi trong tháng x Lãi suất
tháng
|
|
30
|

∑Tích số tính lãi trong tháng = ∑
+ Tính lãi theo món:
Áp dụng đối với các
hình thức tiền gửi có kỳ hạn, các khoản cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn theo
món đã thỏa thuận.
Số tiền lãi
|
=
|
Số dư nợ (dư có)
hay số tiền trả nợ
|
x
|
Thời gian dư nợ
(dư có) hay vay tiền
|
x
|
Mức lãi suất áp dụng
cho thời hạn gửi hay vay
|
c- Miễn, giảm lãi tiền vay.
Trong quá trình thực hiện hợp đồng tín dụng,
nếu khách hàng vay bị tổn thất về tài sản có liên quan đến vốn vay do nguyên
nhân khách quan dẫn đến khó khăn về tài chính, có thể làm đơn đề nghị gửi đến
ngân hàng xem xét miễn, giảm lãi tiền vay.
8.2. Phí suất tín dụng:
Khi
sử dụng một khoản tín dụng, ngoài việc trả lãi đôi khi khách hàng còn phải trả
các khoản phí khác có liên quan đến khoản tiền vay.
Phí
suất tín dụng là tỷ lệ % giữa chi phí mà người đi vay phải trả cho ngân hàng so
với số tín dụng thực tế sử dụng trong thời gian vay.
PTD
|
=
|
CP
|
x
|
100%
|
TV
|
Trong đó:
+
PTD : Phí suất tín dụng.
+
CP : Tổng chi phí thực tế bao gồm lãi vay và các khoản phí khác có liên quan đến
tiền vay.
+
TV : Số tiền vay thực tế mà khách hàng sử dụng.
9. Câu chuyện về
Huỳnh Thị Huyền Như:
Vụ án Huỳnh Thị
Huyền Như chiếm đoạt hơn 4.911 tỷ VND xảy ra tại VietinBank là vụ án lớn trong
lịch sử ngành ngân hàng Việt Nam .
Huyền Như nguyên
là Phó phòng quản lỹ rủi ro Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam chi nhánh
TP>HCM , quyền trưởng phòng giao
dịch Điện Biên Phủ, đã lừa đảo chiếm đoạt tiền của 9 công ty, 4 ngân hàng, 3 cá
nhân.
-
Huy
động vốn với lãi suất cao
Bằng cách sử dụng
con dấu giả, Như và đồng bọn đã trực tiếp dùng các hợp đồng giả và chữ ký giả
huy động vốn từ các ngân hàng, doanh nghiệp, công ty chứng khoán để vay vốn với
ngân hàngững lời mời hết sức hấp dẫn như: ngoài lãi suất 14% theo quy định còn
trả thêm ngoài hợp đồng 8 – 10%/năm và nhiều doanh nghiệp đã bị sập bẫy.
-
Đánh
tráo hồ sơ mở tài khoản, giả chứng từ để chuyể rút tiền
Là giám đốc, hiểu
biết rõ về nghiệp vụ ngân hàng, sau khi VietinBank nhận hồ sơ mở tài khoản của
khách hàng, Huyền Như đã lập hồ sơ mở tài khoản giả, chữ kí giả, dấu giả để
đánh tráo hồ sơ mở tài khoản do khách hàng thành lập. sau khi khách hàng chuyển
tiền vào tài khoản tại ngân hàng này, Huyền Như lập lệnh chi giả, lệnh chuyển
tiền giả để chiếm doạt tiền trên tài khoản tiền gửi của khách hàng.
-
Làm
giả chứng từ để chuyển tiền, rút tiền
-
Dùng
hồ sơ giả để vay tiền của VietinBank
Huyền Như tự ý
giả chữ kí, lập 83 thẻ tiết kiệm do ngân hàng Công thương phát hành trị giá
533,55 tỷ đồng đứng tên các khách hàng gửi tiền. trên cơ sở hợp đồng tiền kí gửi
với VietinBank, các nhân viên ngân hàng ACB, Nam Việt đã chuyển tiền vào tài
khoản của từng người mở tại Ngân hàng Công thương. Sau đó Huyền Như sử dụng
trái phép các thẻ tiết kiệm này làm tài sản bảo đảm, lập hợp đồng vay tiền giá,
ký giả chữ ký của chủ thẻ để vay 514,54 tỷ đồng tại văn phòng giao dịch Điện
Biên Phủ và Đinh Tiên Hoang thuộc ngân hàng Công thương HCM .
Þ Huỳnh Thị Huyền
Như đã bị khởi tố tội danh ‘lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, “làm giả con dấu, tài
liệu của cơ quan tổ chức” , vi phạm luật tổ chức tín dụng.
Qua vụ án này,
chúng ta thấy rằng các NHTM cần phải thắt chặt công tác quản lý đối với việc
cho vay một cách chặt chẽ. Việc Huyền Như có thể thực hiện trong một thời gian
dài như vậy cũng có nguyên nhân lớn từ phía các nhân viên của ngân hàng
VietinBank quá tin tưởng Huyền như nên không thực hiện khắt khe các quy trình của
nghiệp vụ cho vay cũng như một số thành phần lãnh đạo đã cố tình lờ đi sự việc
này.
II. Các phương
thức cho vay của các NHTM
1. Các phương thức
cho vay ngắn hạn:
1.1
Cho vay từng lần:
Cho vay từng lần là phương thức cho vay
của NHTM mà mỗi lần vay vốn, người vay và tổ chức tín dụng đều làm thủ tục vay
vốn cần thiết và kí kết hợp đồng tín dụng. Từng khoản vay là một hợp đồng tín dụng,
gắn với một phương án sử dụng vốn cụ thể
Thủ tục: căn cứ vào hồ sơ xin vay, ngân
hàng sẽ phân tích khách hàng và kí hợp đồng cho vay, xác định quy mô cho vay,
thời hạn giải ngân, thời hạn trả nợ, lãi suất và yêu cầu bảo đảm tiền vay.
Cách thức phát tiền vay: Dựa vào hợp đồng
tín dụng, ngân hàng sẽ phát tiền vay cho người vay một hoặc nhiều lần sao cho
phù hợp với nhu cầu sử dụng vốn vay của người vay.
Cách thức thu nợ: theo từng kì hạn ghi
trong hợp đồng tín dụng, ngân hàng sẽ thu nợ gốc và lãi, người vay có trách nhiệm
chủ động trong việc trả nợ cho ngân hàng.
Ưu điểm
|
Nhược điểm
|
-
Thủ tục
rõ ràng, minh bạch
-
NH chủ
động trong việc cho vay, có thể kiểm soát từng món vay riêng biệt.
|
-
Thủ tục
phức tạp, rườm rà
-
Khách
hàng không chủ động được nguồn vốn do phải lập hồ sơ cho từng lần vay
-
Chỉ
thích hợp với những doanh nghiệp có nhu cầu vốn không định kì.
|
1.2
Cho vay theo hạn mức tín dụng:
Cho vay theo hạn mức tín dụng là phương
thức cho vay của NHTM mà NH và khách hàng xác định và thỏa thuận một hạn mức
tín dụng duy trì trong một khoảng thời gian nhất định (không quá 12 tháng)
Khi KH có nhu cầu vay vốn, NH sẽ đáp ứng
kịp thời. Đồng thời, khi có doanh thu, người vay phải nộp toàn bộ vào NH để trả
nợ, đảm bảo mức dư nợ và doanh số trả nợ đã cam kết.
Thủ tục: Trước kì kế hoạch, người vay phải
gửi cho NH hồ sơ vay vốn. Sau khi nhận hồ sơ, NH sẽ thẩm định, nếu chấp nhận
cho vay, người vay phải kí hợp đồng tín dụng với 3 nội dung cơ bản:
+
Mức dư nợ tối đa
+
Vòng quay vốn tín dụng: phản ánh tốc độ di chuyển của vốn tín dụng, hay chính
là khoảng thời gian giữa lần cho vay và lần thu nợ liền kề
Vòng
quay VTD = Doanh số dư nợ / Dư nợ bình quân
+
Phương pháp trả nợ
Cách thức phát tiền vay: trong phạm vi hạn mức tín dụng, thời hạn hiệu lực của hạn mức
tín dụng, mỗi lần rút vốn vay khách hàng và NH nơi cho vay lập giấy nhận nợ kèm
theo các chứng từ phù hợp với mục đích sử dụng vốn trong hợp đồng tín dụng.
Thời hạn cho vay: Thời hạn cho vay được xác định trên hợp đồng tín dụng hoặc
trên từng giấy nhận nợ phù hợp với chu kỳ sản xuất, kinh doanh và khả năng trả
nợ của khách hàng, nguồn vốn của NH nhưng tối đa không quá 12 tháng; nếu khách
hàng kinh doanh tổng hợp thì lựa chọn sản phẩm có chu kỳ kinh doanh dài nhất hoặc
chiếm tỷ trọng chủ yếu để xác định thời hạn cho vay. Thời hạn cho vay trên từng
giấy nhận nợ có thể không phù hợp với thời hạn hiệu lực của hạn mức tín dụng.
Ưu điểm
|
Nhược điểm
|
-
Thủ tục
vay đơn giản
-
Khách
hàng có thể chủ động được nguồn vốn vay
|
- Do các lần vay không tách biệt
thành các kì hạn nên NH rất khó kiểm soát hiệu quả sử dụng từng lần vay. Nh
chỉ phát hiện thấy dư nợ lâu không giảm hoặc KH chậm chễ trong việc nộp các
báo cáo tài chính.
|
1.3
Chiết khấu các giấy tờ có giá:
Chiết khấu các giấy tờ có giá là một
phương thức cho vay phổ biến của các NHTM, theo đó khách hàng chuyển nhượng quyền
sở hữu các giấy tờ có giá chưa đến hạn cho ngân hàng để nhận một khoản tiền bằng
mức chiết khấu của giấy tờ có giá đó trừ đi lãi chiết khấu.
Ưu điểm
|
Nhược điểm
|
-
Đáp ứng
kịp thời nhu cầu vay vốn của khách hàng.
-
Thủ tục
đơn giản, nhanh chóng, tiết kiệm thời gian và chi phí giữa 2 bên
|
Không có
|
1.5
Thấu chi:
Thấu chi là
phương thức cho vay trong đó NH cho phép người vay được chi trội (vượt) trên số
dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định và trong khoảng thời
gian xác định. Giới hạn này được gọi là hạn mức thấu chi.
Ưu điểm
|
Nhược điểm
|
-
Tạo điều
kiện thuận lợi cho KH trong quá trình thanh toán: chủ động, nhanh, kịp thời
-
Thủ tục
ngắn gọn, đơn giản, có thể cấp cho cả doanh nghiệp lẫn cá nhân.
|
-
Việc cấp
tín dụng phần lớn đều không có bảo đảm, dễ dẫn tới tình trạng khó thu hồi nợ
-
Thực
hiện dựa trên cơ sở thu và chi của KH nên có thể không phù hợp về quy mô và
thời gian cho vay của phía NH
|
2. Các phương thức
cho vay trung và dài hạn:
2.1
Cho vay theo dự án đầu tư:
Cho vay đầu tư dự án nhằm hỗ trợ tài chính cho các
doanh nghiệp thực hiện đàu tư các dự án mới, các dự án nâng cấp, mở rộng sản xuất
kinh doanh; giúp các doanh nghiệp thuận lợi trong việc triển khai hoạt động sản
xuất kinh doanh, dịch vụ hoặc mở rộng quy mô hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp mình.
Thủ tục: căn cứ vào hồ sơ xin vay vốn, NH sẽ tiến
hành thẩm định dự án đầu tư cần vay vốn, nếu chấp nhận, NH và KH sẽ kí hợp đồng
tín dụng và thỏa thuận mức vốn đầu tư duy trì cho cả thời gian đầu tư dự án,
phân định các kì hạn trả nợ. Nguồn vốn cho vay được giải ngân theo tiến độ dự
án
Phát tiền vay: Sau mỗi lần phát tiền vay cho KH , NH
sẽ yêu cầu KH phải kí chấp nhận nợ
Cách
thức thu nợ: Việc thu nợ gốc và lãi được thực hiện theo kì hạn đã được xác định
trong hợp đồng tín dụng hoặc khế ước nhận nợ.
Ưu điểm
|
Nhược điểm
|
Là nghiệp vụ cho vay truyền thống, có khả năng sinh lời cao cho
các NH
|
-
Chứa đựng nhiều rủi ro
-
NH cần phải tiến hành thẩm định rất kỹ lưỡng về thị trường, kỹ
thuật, hoạt động quản lý của chủ đầu tư,...
|
2.2 Cho vay trả góp:
Cho vay trả góp là phương thức cho vay giúp người
vay có điều kiện mua sắm trang thiết bị. NH và KH sẽ thỏa thuận số tiền vay phải
trả cộng với nợ gốc được chia ra để trả nợ theo nhiều kì hạn trong thời hạn cho
vay. Phương thức này thường được áp dụng đối với người vay có phương án trả nợ
gốc và lãi vay khả thi bằng các khoản thu nhập chắc chắn, ổn định.
Ưu điểm
|
Nhược điểm
|
-
Giúp mở rộng quan hệ với khách hàng, từ đó làm tăng khả năng huy
động các loại tiền gửi cho ngân hàng.
-
Tạo điều kiện đa dạng hóa hoạt động kinh doanh, nhờ vậy nâng cao
thu nhập và phân tán rủi ro cho ngân hàng.
|
Chi phí cho vay trả góp là khá cao.
|
2.3
Cho vay hợp vốn:
Cho vay hợp vốn là phương thức cho vay
trong đó một nhóm các ngân hàng cùng cho vay đối với một dự án hoặc phương án
vay vốn của ngân hàng. Trong cho vay hợp vốn, một ngân hàng làm đầu mối dàn xếp,
phối hợp với các ngân hàng khác.
Việc cho vay được thực hiện theo chế độ
đồng tài trợ và quy chế tín dụng của các tổ chức tín dụng do Thống đốc NHNN ban
hành.
Ưu điểm
|
Nhược điểm
|
Phân tán rủi ro của các tổ chức
tín dụng khi quyết định cho vay.
|
- Đòi hỏi phải có sự ăn khớp,
thống nhất và liên kết chặt chẽ trong vấn đề quản lý giữa các ngân hàng.
- Chi phí quản lý là khá tốn kém
cả về thời gian và tài chính.
|
III. Thực trạng và hạn chế trong hoạt động cho vay của
NHTM tại Việt Nam
1. Thực trạng
1.1. Tốc độ tăng trưởng
tín dụng
Tốc độ tăng trưởng tín dụng
cao hơn so với huy động trong một thời gian dài dẫn tới tình trạng mất cân đối
nghiêm trọng về cơ cấu kỳ hạn. Tăng trưởng tín dụng giai đoạn 2005-2010 bình
quân 30%/năm trong khi tăng trưởng huy động từ TCKT và dân cư bình quân 21,17%;
huy động ngày một suy giảm do nhiều yếu tố khách quan khác nhau... tăng trưởng
tín dụng năm 2011 giảm chỉ còn 13,32% nhưng vẫn cao hơn so với tăng trưởng huy
động tiền gửi từ TCKT và dân cư (12,71%)

Số liệu công bố của Fitch
Rating vào tháng 3/2012 cũng cho thấy tỷ lệ cho vay/tiền gửi của Việt Nam
(103,87%) cao nhất trong khu vực Đông Nam Á và chỉ đứng sau Hàn Quốc (136%)
trong khu vực châu Á- Thái Bình Dương.

Tuy nhiên, từ
2012 trở lại đây, tăng trưởng huy động tiền gửi lại cao hơn tăng trưởng tín dụng.,
cụ thể hết năm 2013, tăng trưởng tín dụng đạt mức 12.51% trong khi chỉ tính
riêng 9 tháng đầu năm 2013, tăng trưởng huy động tiền gửi đã là 13.78% dù lãi
suất huy động giảm còn 8%/năm kì hạn 12 tháng.
Doanh nghiệp
vẫn khó tiếp cận vốn
- Lệch pha vay
vốn
Khi
đầu tư mua sắm máy móc, dây chuyền sản xuất, lẽ ra doanh nghiệp phải được vay
trung, dài hạn, song đa phần chỉ được vay ngắn hạn. Điều này bắt nguồn từ một số
lý do khác nhau. Đầu tiên, theo thống kê của Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam hơn
90% tiền gửi trong hệ thống ngân hàng thương mại là tiền gửi ngắn hạn, do vậy
ngân hàng rất thiếu nguồn vốn ổn định dành cho các khoản vay trung, dài hạn mặc
dù những khoản tiền gửi ngắn hạn của người dân thực ra được tái đầu tư rất đều
đặn và thường xuyên. Do vậy, có rất nhiều khoản tiền gửi ngắn hạn, nhưng thực tế
lại được cho vay trung và dài hạn.
- Nguyên nhân:
Theo kết quả của cuộc khảo sát 100 doanh
nghiệp về mối quan hệ giữa doanh nghiệp và ngân hàng thương mại do Ủy ban Giám
sát Tài chính Quốc gia (UBGSTC) Năm 2013: 50% doanh
nghiệp vẫn khó khăn khi tiếp cận vốn vay từ các NHTM.
Theo UBGSTC, tỷ lệ này đã giảm
đáng kể so với kết quả khảo sát năm 2012 (63,5% doanh nghiệp cho biết họ khó
khăn khi tiếp cận nguồn vốn từ NHTM).
Trong đó, có tới 40% số doanh
nghiệp gặp vướng mắc về nợ xấu tại các TCTD chưa trả được và đây cũng là rào cản
lớn đối với doanh nghiệp trong việc tìm kiếm nguồn vốn khôi phục lại hoạt động
sản xuất kinh doanh.
“Nợ xấu là khó khăn thứ 3 khi tiếp
cận vốn vay, sau tài sản đảm bảo và chứng minh năng lực tài chính” – Bản khảo
sát nêu rõ.
Nguyên nhân là
các ngân hàng không thể đẩy được vốn ra nền kinh tế do doanh nghiệp chưa giải
quyết được hàng tồn kho cũng như "cục máu đông" nợ xấu. Báo cáo của Ủy
ban Kinh tế Quốc hội mới công bố gần đây cũng cho biết, dòng tiền ra - vào của
các tổ chức tín dụng bị biến động mạnh trong năm vừa qua. Do mất cân đối cho
vay - huy động, một số tổ chức tín dụng trong nhóm yếu kém buộc phải đưa ra các
biện pháp cạnh tranh thu hút vốn quyết liệt bằng lãi suất để thu hút tiền gửi. Một lý do quan trọng khác là nền kinh tế đang ở giai
đoạn tăng trưởng chậm, các kênh đầu tư khác như bất động sản, chứng khoán, vàng
hoặc èo uột, bấp bênh hoặc rất khó sinh lời như trước trong khi tiềm ẩn nhiều rủi
ro nên người dân vẫn lựa chọn gửi tiền tiết kiệm tại ngân hàng - một trong những
cách đầu tư mang lại thu nhập ổn định và “đỡ đau đầu” nhất.
Bảng 1: Dư nợ
cho vay quý 3/2013 và Tăng trưởng của các ngân hàng

Có thể thấy tốc độ
tăng trưởng dư nợ cho vay ở một số ngân hàng đã cải thiện đáng kể trong thời
gian qua, dẫn đầu là SHB với mức tăng trưởng 15%, STB (13.3%), tiếp đó là BID (9.8%), MBB (8.8%) và EIB(8.3%)…

Ngoài SHB có tỷ lệ
nợ xấu được kéo giảm đáng kể, tỷ lệ nợ xấu ở hầu hết các ngân hàng còn lại vẫn
đang tiếp tục gia tăng. Đáng chú ý nhất là Techcombank có tỷ lệ nợ xấu tăng mạnh từ 2.7% vào
đầu năm lên đến 5.9% khi kết thúc quý 3, NVB tăng từ 5.6 lên 8.8%, PGBank tăng từ 8.4 lên 9.5%, ACB cũng
tăng từ 2.5 lên 3.3%...
1.2. Tỷ lệ nợ xấu
cao.
Theo số liệu của Ngân hàng Nhà nước, từ
năm 2008 đến nay, nợ xấu của các tổ chức tín dụng tại Việt Nam có xu hướng tăng
nhanh. Trung bình giai đoạn 2008 - 2011, dư nợ bình quân nợ xấu khá cao, khoảng
51%. Theo báo cáo của các ngân hàng thương mại, tỷ lệ nợ xấu toàn ngành tại thời
điểm 30-11-2012 là 3,43%, song theo báo cáo của Ngân hàng Nhà nước trước Quốc hội,
nợ xấu tại thời điểm thanh tra của Ngân hàng Nhà nước là 8,82% tổng dư nợ tín dụng
của nền kinh tế, khoảng 250.000 tỷ đồng (khoảng 12 tỷ USD), tương đương 10%
GDP. Ngoài ra, con số nợ xấu này chưa tính đến nợ tồn đọng xây dựng cơ bản (chủ
yếu của các địa phương), hiện đang dự tính khoảng 90.000 tỷ đồng. Theo các
chuyên gia kinh tế, nợ xấu tập trung chủ yếu vào lĩnh vực bất động sản và chứng
khoán; trong đó nợ xấu tại khu vực doanh nghiệp nhà nước rất lớn. Những số liệu
của một số nhà nghiên cứu cho thấy, khu vực doanh nghiệp nhà nước hiện đóng góp
vào 70% nợ xấu của toàn hệ thống, trong đó các tập đoàn kinh tế, tổng công ty
chiếm 53% số nợ xấu. Xu hướng gia tăng nợ của các doanh nghiệp sẽ góp phần làm
cho tình hình nợ xấu của các tổ chức tín dụng ngày càng nghiêm trọng hơn. Nợ xấu
theo nhóm ngành nghề của các tổ chức tín dụng cũng tăng, trong đó có 6 ngành kinh
tế chiếm tỷ lệ nợ xấu cao nhất, là: công nghiệp chế biến, chế tạo chiếm 22,5% tổng
nợ xấu toàn hệ thống; hoạt động kinh doanh bất động sản và dịch vụ là 7,83% và
19,25%; buôn bán, sửa chữa, ô tô, xe máy 18,52%; vận tải, kho bãi chiếm 11% và
xây dựng là 9,5%. Việc gia tăng nợ xấu nhóm thương mại và dịch vụ, trong đó có
ngành vận tải biển, cho thấy khó khăn của thị trường tiêu thụ hàng hóa và dịch
vụ trong nước và quốc tế đã tác động mạnh đến ngành này.
Bảng 3: Nợ xấu của các ngân hàng thương mại ViệtNam
giai đoạn 2008 - 2012
Bảng 3: Nợ xấu của các ngân hàng thương mại Việt
Năm
|
2008
|
2009
|
2010
|
2011
|
2012
|
Tổng
nợ xấu (tỷ đồng)
|
26.970
|
35.875
|
49.064
|
85.967
|
185.205
|
Tổng
dư nợ (tỷ đồng)
|
1.242.857
|
1.750.000
|
2.271.500
|
2.504.911
|
3.086.750
|
Tỷ
lệ nợ xấu/ tổng dư nợ (%)
|
2,17
|
2,05
|
2,16
|
3,43
|
6
|
Nguồn: Báo cáo tổng
kết hoạt động của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam giai đoạn 2005 – 2012
Những tháng đầu năm 2013, tỷ lệ nợ xấu
tiếp tục tăng cao ở mức 4,67% (vào tháng 4-2013) và đến tháng 6 giảm xuống còn
4,46%. Mức giảm này được Ngân hàng Nhà nước đánh giá là do các ngân hàng thương
mại đã tăng cường trích lập dự phòng rủi ro theo quy định, thu hồi và xử lý nợ
xấu. Tuy vậy, con số này vẫn được xem là cao vì theo ước tính thì nó chiếm khoảng
gần 6% GDP và vẫn có nguy cơ gia
tăng. Hơn nữa, trong vòng 5 tháng, tỷ lệ nợ xấu giảm nhanh đã đặt ra nhiều vấn
đề cần xem xét. Nhiều chuyên gia kinh tế cũng lo ngại về tỷ lệ nợ xấu thực mà
các ngân hàng chưa công bố còn cao hơn nhiều. Vì vậy, trong thực tế của bức
tranh tài chính, tiền tệ Việt Nam ,
nợ xấu là vấn đề đáng báo động.
Hình 3: Tỷ lệ nợ xấu trong tổng dư nợ tín dụng các tháng đầu năm 2013
(đơn vị: %)

Nguồn: Ngân hàng Nhà nước

Nguồn: Ngân hàng Nhà nước
Tính đến hết
năm 2013, tỉ lệ nợ xấu trong hệ thống ngân hàng là 3,79%, giảm gần 1% so với đầu
năm 2013. Tính đến nay công ty mua bán nợ xấu VAMC đã mua gần 40.000 tỉ đồng nợ
xấu từ các ngân hàng. Năm 2014, VAMC sẽ tiếp tục triển khai việc mua nợ xấu từ
các TCTD, với mục tiêu dự kiến sẽ mua được khoảng 100.000 tỉ đồng nợ xấu. Nợ xấu
sẽ được xử lý và bán lại ra thị trường.
Dù những số liệu công bố chưa thể phản
ánh được hết thực trạng tình hình nợ xấu của các ngân hàng hiện nay, nhưng qua
các con số trên, bức tranh cơ bản của nợ xấu đã hiện ra khá rõ - vẫn còn nhiều
gam màu tối. Và thực tế, nợ xấu của các ngân hàng hiện nay vẫn còn “xấu” dù đã
có những dấu hiệu giảm đáng kể sau những nỗ lực khắc phục của các ngân hàng.
Nợ xấu của các doanh nghiệp nhà nước cũng chưa được phản ánh trung thực, do cách hạch toán, phân loại nợ. Đây lại là nơi khó thanh lý tài sản hoặc cổ phần nhà nước theo giá thị trường trong giai đoạn kinh tế suy giảm mạnh (khác với các doanh nghiệp tư nhân, vốn có thể dễ dàng bán tài sản hoặc nhượng cổ phần cho các doanh nghiệp khác để có tiền trả nợ ngân hàng nhằm tránh phá sản). Vì vậy, các khoản nợ mà các doanh nghiệp nhà nước vay thường phải trông đợi vào sự hỗ trợ của ngân sách nhà nước dưới các hình thức xóa nợ, khoanh nợ, chuyển nợ, bổ sung vốn… Một đặc điểm nổi bật là, nợ xấu của các tổ chức tín dụng và của các doanh nghiệp ViệtNam
gắn khá chặt chẽ với khu vực bất động sản. Dư nợ cho khu vực này vay chiếm dưới
16% nhưng các tài sản thế chấp bằng bất động sản cho các khoản vay khác nhau
chiếm tới 60% - 70% tổng giá trị tài sản thế chấp. Khi thị trường bất động sản
suy giảm, những khoản nợ xấu, nợ quá hạn được thế chấp bởi bất động sản sẽ rất
khó thanh lý. Bên cạnh đó, chế tài xử lý các tài sản bảo đảm chưa minh bạch,
không thuận lợi; chưa có cơ chế phù hợp để xử lý các tài sản bảo đảm, thế chấp
tại ngân hàng. Do vậy, ngân hàng thường khó xử lý, phát mại các tài sản để bù đắp
các khoản nợ khó đòi. Việc thanh lý mạnh các tài sản thế chấp sẽ lại tiếp tục
khiến cho giá bất động sản suy giảm thêm và làm trầm trọng thêm tình hình nợ xấu
của nền kinh tế. Chính đặc điểm này khiến cho công tác xử lý nợ xấu sẽ càng gặp
nhiều trở ngại hơn trong bối cảnh suy giảm chung của nền kinh tế.
Nợ xấu của các doanh nghiệp nhà nước cũng chưa được phản ánh trung thực, do cách hạch toán, phân loại nợ. Đây lại là nơi khó thanh lý tài sản hoặc cổ phần nhà nước theo giá thị trường trong giai đoạn kinh tế suy giảm mạnh (khác với các doanh nghiệp tư nhân, vốn có thể dễ dàng bán tài sản hoặc nhượng cổ phần cho các doanh nghiệp khác để có tiền trả nợ ngân hàng nhằm tránh phá sản). Vì vậy, các khoản nợ mà các doanh nghiệp nhà nước vay thường phải trông đợi vào sự hỗ trợ của ngân sách nhà nước dưới các hình thức xóa nợ, khoanh nợ, chuyển nợ, bổ sung vốn… Một đặc điểm nổi bật là, nợ xấu của các tổ chức tín dụng và của các doanh nghiệp Việt
Nợ xấu của các tổ chức tín dụng làm ách
tắc dòng chu chuyển vốn trong nền kinh tế ảnh hưởng tiêu cực không chỉ đối với
các tổ chức tín dụng mà còn cả đối với khu vực doanh nghiệp. Do bị đọng vốn
trong nợ xấu, các tổ chức tín dụng không có điều kiện mở rộng tín dụng cho nền
kinh tế nên hoạt động sản xuất, kinh doanh càng gặp khó khăn hơn. Ngoài ra, nợ
xấu còn ảnh hướng lớn đến tính an toàn, hiệu quả và tính thanh khoản của các tổ
chức tín dụng. Nợ xấu hiện nay đã làm tăng chi phí và ảnh hưởng nghiêm trọng đến
kết quả hoạt động kinh doanh, tài chính của các doanh nghiệp.
Xác định những nguyên nhân cơ bản
Nguyên nhân nợ xấu của các tổ chức tín
dụng tăng cao, chủ yếu do một số nguyên nhân cơ bản sau:
- Chính sách tiền tệ nới lỏng kéo dài,
tín dụng của ngân hàng là nguồn chính để tài trợ cho đầu tư của nền kinh tế,
nhưng một phần lớn tín dụng tập trung vào các lĩnh vực phi sản xuất bao gồm cả
thị trường bất động sản, làm suy giảm chất lượng tín dụng và dẫn đến lạm phát
cao. Lạm phát tăng mạnh đã làm xói mòn sức mua của người tiêu dùng, người dân
thắt chặt chi tiêu dẫn đến cầu nội địa suy giảm mạnh. Cùng với đó, tác động của
cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu cũng khiến cầu nước ngoài suy giảm. Tổng cầu giảm
khiến lượng hàng tồn kho của các doanh nghiệp ngày càng tăng cao, doanh nghiệp
không tiêu thụ được hàng hóa, không quay vòng được vốn, ảnh hưởng tiêu cực đến
hoạt động sản xuất, kinh doanh, khiến nhiều doanh nghiệp lâm vào tình trạng ngừng
hoạt động, thậm chí phá sản, giải thể. Ngoài ra, lạm phát biến động mạnh và bất
thường làm cho môi trường kinh doanh trở nên bất định hơn, gây ảnh hưởng xấu đến
kết quả tài chính và khả năng trả nợ ngân hàng của doanh nghiệp.
- Thị trường bất động sản trầm lắng
cũng là một nguyên nhân chính gây ra nợ xấu bất động sản tăng cao. Do tác động
khủng hoảng tài chính cùng với chính sách hạn chế tín dụng cho các lĩnh vực phi
sản xuất, các dòng vốn chảy vào lĩnh vực bất động sản (bao gồm cả tín dụng bất
động sản và vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đều suy giảm mạnh khiến giao
dịch trên thị trường này khá ít ỏi, bất chấp giá mặt hàng này đã giảm tương đối
mạnh, số lượng hàng tồn bất động sản ngày càng lớn. Nhiều dự án bị tạm ngưng do
thiếu vốn, thị trường ảm đạm kéo dài khiến nhiều doanh nghiệp bất động sản rơi
vào tình trạng thua lỗ, không có tiền trả nợ ngân hàng, dẫn đến nguy cơ nợ bất
động sản trở thành nợ xấu.
- Áp lực cấp tín dụng cho doanh nghiệp
nhà nước từ các ngân hàng thương mại có vốn nhà nước chi phối cao. Cho đến nay,
ngân hàng thương mại nhà nước vẫn là người cho vay lớn nhất đối với doanh nghiệp
nhà nước vì các lý do khác nhau. Do vậy, nhiều dự án kém hiệu quả cũng như một
số doanh nghiệp nhà nước hoạt động yếu kém vẫn được vay vốn. Bên cạnh đó, việc
sử dụng nguồn vốn không được kiểm soát một cách chặt chẽ gây lãng phí lớn nguồn
vốn vay. Trong bối cảnh chu kỳ kinh tế biến động bất thường, hậu quả tất yếu là
nhiều doanh nghiệp, dự án không đủ khả năng để trả nợ, góp phần gia tăng nợ xấu
trong khu vực này.
- Năng lực quản trị của các tổ chức tín dụng còn nhiều bất cập so với quy mô, tốc độ tăng trưởng và mức độ rủi ro trong hoạt động. Với nhiều ngân hàng thương mại, nguồn vốn huy động ngắn hạn chiếm tới 70% - 80% tổng nguồn, thậm chí đối với một số ngân hàng, tỷ trọng này còn cao hơn, trong khi tỷ trọng cho vay trung hạn và dài hạn không nhỏ. Với độ vênh lớn về kỳ hạn giữa tài sản có và tài sản nợ, thì vấn đề thiếu thanh khoản, tiềm ẩn rủi ro thanh toán là lớn. Mặt khác, do áp lực tăng tổng tài sản, nhiều ngân hàng bằng mọi cách để có vốn, cách mà các ngân hàng thương mại sử dụng chủ yếu là dùng lãi suất huy động cao, tất yếu lãi suất cho vay cũng rất cao. Lãi suất cho vay càng cao, thì rủi ro từ phía khách hàng không trả được nợ khi đến hạn sẽ càng lớn, nợ xấu của các ngân hàng tăng mạnh là điều dễ hiểu.
- Năng lực quản trị của các tổ chức tín dụng còn nhiều bất cập so với quy mô, tốc độ tăng trưởng và mức độ rủi ro trong hoạt động. Với nhiều ngân hàng thương mại, nguồn vốn huy động ngắn hạn chiếm tới 70% - 80% tổng nguồn, thậm chí đối với một số ngân hàng, tỷ trọng này còn cao hơn, trong khi tỷ trọng cho vay trung hạn và dài hạn không nhỏ. Với độ vênh lớn về kỳ hạn giữa tài sản có và tài sản nợ, thì vấn đề thiếu thanh khoản, tiềm ẩn rủi ro thanh toán là lớn. Mặt khác, do áp lực tăng tổng tài sản, nhiều ngân hàng bằng mọi cách để có vốn, cách mà các ngân hàng thương mại sử dụng chủ yếu là dùng lãi suất huy động cao, tất yếu lãi suất cho vay cũng rất cao. Lãi suất cho vay càng cao, thì rủi ro từ phía khách hàng không trả được nợ khi đến hạn sẽ càng lớn, nợ xấu của các ngân hàng tăng mạnh là điều dễ hiểu.
- Sở hữu chéo, đầu tư ngoài ngành của
các ngân hàng và doanh nghiệp nhà nước diễn ra phổ biến đã dẫn tới các khoản
cho vay, đầu tư lòng vòng, bất chấp quy định, gây hậu quả nghiêm trọng. Đối với
hệ thống ngân hàng Việt Nam ,
sở hữu chéo dẫn tới rủi ro nhóm ngân hàng liên quan và rủi ro liên thông giữa
các thị trường bất động sản, chứng khoán do các ngân hàng Việt Nam đều liên
quan tới kinh doanh bất động sản, chứng khoán.
- Một số cán bộ ngân hàng suy thoái đạo
đức nghề nghiệp, cấu kết, móc ngoặc với doanh nghiệp để trục lợi cá nhân và cho
vay không đúng quy định.
- Hiệu quả công tác thanh tra, giám sát
còn hạn chế, nhất là không kịp thời phát hiện, ngăn chặn và xử lý các vi phạm
quy định về hạn chế cấp tín dụng và đầu tư một số lĩnh vực rủi ro cao.
1.3. Lãi suất cho
vay.

Hiện nay,
trần lãi suất cho vay ngắn hạn phổ biến ở mức 9-11,5%, trung và dài hạn là
11,5-13%. Đến cuối tháng 8/2013, lãi suất của gần 75% các khoản vay cũ đã được
đưa xuống mức 13% từ mức rất cao tại thời điểm cuối năm 2012 là 33,4%. Phần
16,8% các khoản vay cũ còn lại cũng đã được giảm lãi suất từ mức 46,1% xuống
còn 3-15%/năm.Mặt bằng lãi suất cho vay còn thấp hơn đối với 5 lĩnh vực ưu tiên.
Tuy nhiên, để có thể kích cầu tín dụng tăng trưởng, khả năng lãi suất cho vay sẽ
giảm thêm 1 - 1,5%/năm trong năm nay, cho dù lãi suất huy động khó có thể giảm
sâu trong thời gian tới. Đặc biệt với 5 nhóm lĩnh vực ưu tiên (nông nghiệp, xuất
khẩu, DN vừa và nhỏ và công nghiệp phụ trợ) hiện trần cho vay chỉ 9%/năm, nhưng
nếu diễn biến thị trường phù hợp, lạm phát được kiểm soát tốt, khả năng NHNN sẽ
xem xét để điều chỉnh giảm thêm.

1.4. Tài sản bảo đảm.
Ngân hàng hiện nay khi cho
vay vốn đều yêu cầu tài sản đảm bảo, bởi hiện nay doanh nghiệp đang khó khăn vì
hàng tồn kho nhiều, không có phương án kinh doanh hiệu quả, nợ quá hạn và nợ xấu
gia tăng... nên ngân hàng khó lòng giải quyết được tất cả cho doanh nghiệp. Và
bản thân ngân hàng cũng hoạt động như một doanh nghiệp, phải tuân theo hệ số an
toàn. Nhưng điều này cũng gây khó khăn cho việc tiếp cận nguồn vốn của doanh
nghiệp nhất là các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Theo thông
tin từ NHNN, có đến 60% dư nợ tại các ngân hàng được đảm bảo bằng bất động sản
(BĐS). Hiện nợ xấu của hệ thống ngân hàng là khá lớn, thế nhưng việc xử lý tài
sản đảm bảo để thu hồi nợ, đặc biệt là các tài sản đảm bảo là BĐS của các NHTM
hiện nay gặp rất nhiều khó khăn.
1.5. Sở hữu chéo.
Năm 2012, việc sở hữu chéo tại
ngân hàng trở thành vấn đề nổi cộm. Vietcombank, ACB, Maritime Bank, Eximbank…
đều nắm giữ cổ phần lớn tại 1 hoặc một số ngân hàng khác.
Sở hữu
chéo đang được nhìn nhận là vấn đề lớn nhất của hệ thống tín dụng Việt Nam hiện nay.
Theo cách phân nhóm của Ủy ban Kinh tế của Quốc hội, hiện có 6 nhóm sở hữu chéo
khác nhau:
(1) sở hữu
của các ngân hàng trong nước và nước ngoài tại các ngân hàng liên doanh;
(2) là cổ
đông chiến lược nước ngoài sở hữu tại các ngân hàng thương mại (NHTM) trong nước;
(3) cổ
đông tại các ngân hàng là các công ty quản lý quỹ;
(4) sở hữu
của các ngân hàng thương mại nhà nước tại các MHTM cổ phần;
(5) sở hữu
lẫn nhau giữa các NHTM cổ phần;
(6) sở hữu
ngân hàng cổ phần bởi các tập đoàn, tổng công ty nhà nước và tư nhân.
Sở hữu
chéo là hoạt động mang tính lịch sử của ngành ngân hàng. Khi định hướng thành lập
hệ thống ngân hàng cổ phần, Chính phủ chủ trương, trong mỗi ngân hàng cổ phần,
cần có sự góp vốn của ngân hàng quốc doanh hoặc tổng công ty Nhà nước, nhằm
chia sẻ kinh nghiệm hoạt động, quản trị nhân sự, tạo hướng đi cho ngân hàng cổ
phần non trẻ; đồng thời giám sát đảm bảo hoạt động ngân hàng cổ phần không vượt
ngoài khuôn khổ pháp lý, vì thế mà sở hữu chéo theo nhóm 4 và 6 hình thành.
Tiếp
theo đó, khi bắt đầu mở rộng hoạt động, nhằm tiếp thu nghiệp vụ ngân hàng từ
các ngân hàng cổ phần lớn (như Vietcombank) cũng như tăng cường mối quan hệ, mở
rộng mạng lưới khách hàng, nhiều ngân hàng cổ phần lại sở hữu chéo lẫn nhau,
hình thành nên nhóm 5.
Sở hữu
chéo làm tăng vốn ảo trong hệ thống ngân hàng, giảm tính minh bạch, khiến hoạt
động quản trị của ngân hàng bị bóp méo. Các cuộc họp giữa các cổ đông và hoạt động
của Ban kiểm sát đều sơ lược và phần lớn là bỏ qua.
Cơ chế
biểu quyết theo số đông là không hiệu quả và trong thực tế, nhóm cổ đông sở hữu
chéo sẽ trở thành cổ đông quan trọng của công ty, làm suy yếu vị trí và ảnh hưởng
cổ đông khác trong các công ty.
Về lâu
dài, tình trạng thiếu sự giám sát, quản lý từ nhiều bên, đặc biệt là các cổ
đông ngoài nhóm cổ đông sở hữu chéo và ban kiểm soát nội bộ sẽ làm xói mòn hiệu
quả hoạt động của doanh nghiệp.
Ở tầm vĩ
mô, sở hữu chéo làm giảm tính minh bạch và sức cạnh tranh của cả nền kinh tế, tạo
ra sự e ngại, tác động không tốt tới việc thu hút đầu tư trong và ngoài nước
vào các lĩnh vực có sở hữu chéo.
Trong ba
năm qua, hàng loạt ngân hàng cổ phần đã nâng vốn điều lệ lên 3.000 tỷ đồng,
nhưng thực tế, gần như không có đồng vốn mới được bổ sung vào hệ thống ngân
hàng. Tuy nhiên, do vốn điều lệ tăng, các ngân hàng được phép huy động tiền gửi
lớn hơn và hàng nghìn tỷ đồng vốn từ ngân hàng lại được giải ngân cho những dự
án sân sau của chính các ông chủ ngân hàng.
Vụ bầu
Kiên có thể coi là một ví dụ điển hình về sự méo mó của quản trị ngân hàng do sở
hữu chéo, với con số thiệt hại hàng ngàn tỷ đồng cho ACB.
2. Hạn chế
2.1 Khung pháp lý điều chỉnh hoạt động cho vay còn hạn chế
Ngoài Luật các tổ chức
tín dụng (Luật số 47/2010/QH12) điều chỉnh hoạt động chung của các
tổ chức tín dụng, Việt Nam chưa có luật cụ thể nào điều chỉnh hoạt
động cho vay của các ngân hàng thương mại. Hoạt động cho vay chủ yếu
được điều chỉnh bằng các quyết định, thông tư do Ngân hàng Nhà nước
quy định:
-
Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN: Quyết định của thống đốc
ngân hàng nhà nước về việc ban hành Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối
với khách hàng
-
Quyết định số 93/2005/QĐ-NHNN: Quyết định của thống đốc
ngân hàng nhà nước Quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để
xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng, hình
thức cho vay chưa đa dạng
Ngoài ra, tùy từng thời
kỳ mà lại có những quyết định, nghị định, thông tư…do các cơ quan
khác nhau ban hành, gây khó khăn cho các tổ chức tín dụng trong việc
theo dõi, cập nhật các quy định có liên quan đến hoạt động cho vay.
Việc có nhiều cơ quan khác nhau ra các văn bản điều chỉnh hoạt động
cho vay của ngân hàng thương mại như Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tài chính,
Thủ tướng chính phủ có thể gây ra sự không thống nhất, chồng chéo
trong các quy định về hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại, gây
trở ngại cho hoạt động của Ngân hàng.
2.2 Tiêu chuẩn cho vay không rõ ràng
Điều kiện vay
vốn cơ bản: Tổ chức tín dụng xem xét và quyết định cho vay khi khách hàng có
đủ các điều kiện sau:
1.
Có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự và chịu trách nhiệm dân sự
theo quy định của pháp luật:
a) Đối
với khách hàng vay là pháp nhân và cá nhân Việt Nam :
-
Pháp nhân phải có năng lực pháp luật dân
sự;
- Cá
nhân và chủ doanh nghiệp tư nhân phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự;
- Đại
diện của hộ gia đình phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự;
- Đại
diện của tổ hợp tác phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự;
-
Thành viên hợp danh của công ty hợp danh phải có năng lực pháp luật và năng lực
hành vi dân sự;
b) Đối
với khách hàng vay là pháp nhân và cá nhân nước ngoài phải có năng lực pháp luật
dân sự và năng lực hành vi dân sự theo quy định pháp luật của nước mà pháp nhân
đó có quốc tịch hoặc cá nhân đó là công dân, nếu pháp luật nước ngoài đó được Bộ
Luật Dân sự của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các văn bản pháp luật
khác của Việt Nam quy định hoặc được điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia quy định.
2. Mục
đích sử dụng vốn vay hợp pháp.
3.
Có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết.
4.
Có dự án đầu tư, phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ khả thi và có hiệu quả;
hoặc có dự án đầu tư, phương án phục vụ đời sống khả thi và phù hợp với quy định
của pháp luật.
5. Thực
hiện các quy định về bảo đảm tiền vay theo quy định của Chính phủ và hướng dẫn
của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam .
Trong
thời gian gần đây, tốc độ tăng trưởng tín dụng của hệ thống ngân hàng đã được
cải thiện nhưng vay tiêu dùng chiếm tỷ trọng lớn, nguồn vốn chưa "chảy"
vào doanh nghiệp (DN). Báo cáo của Ngân hàng Nhà nước Chi nhánh Hà Nội cho thấy,
năm 2013, huy động vốn trên địa bàn tăng gần 15,4%, trong khi tín dụng chỉ tăng
8,01%.
Theo
tính toán, có khoảng 70-80% DN không đáp ứng các điều kiện cho vay nên để có thể
tăng trưởng tín dụng, nhiều ngân hàng đã phải tính đến cách hạ thấp tiêu chuẩn
tín dụng.
2.2 Nguồn nhân lực.
Nguồn nhân lực ngành ngân
hàng – tài chính nói chung và nguồn nhân lực trong các NHTM nói riêng
có một thực tế là vừa yếu vừa thiếu. Đặc biệt, khối kiến thức bổ trợ
(tin học, ngoại ngữ) yếu; kiến thức ngành, giao tiếp hạn chế. Hầu hết các Ngân
hàng Thương mại cổ phần quy mô trung bình trở xuống thiếu đội ngũ quản trị điều
hành, lãnh đạo cấp chi nhánh, phòng giao dịch.
Trong những năm trước đây
ngành ngân hàng đã phát triển về chiều rộng khá nhanh, thể hiện qua việc tăng
số lượng ngân hàng và mở ra hàng loạt chi nhánh, phòng giao dịch, điểm giao dịch
rộng khắp ra cả nước. Do đó, số lượng nhân viên ngân hàng phát triển đột biến.
Theo thống kê của Ngân hàng Nhà nước, đến cuối năm 2012 tổng số nguồn nhân lực
trong ngành ngân hàng là 180.000 người (trong khi năm 2000 chỉ là 67.558 người);
trong đó làm việc trong hệ thống Ngân hàng Nhà nước hơn 6.000 người, số còn lại
làm việc trong các Ngân hàng Thương mại và Quỹ tín dụng nhân dân.
Dự báo, đến năm 2015 nhu cầu
nhân lực cấp cao ngành tài chính khoảng 94.000 người, năm 2020 là 120.900 người.
Nếu các cơ sở đào tạo không thay đổi chiến lược đào tạo nguồn nhân lực thì đến
năm 2015 lực lượng lao động chất lượng cao trong ngành sẽ thiếu trầm trọng.
2.3 Khả năng thẩm định của ngân
hàng kém dẫn đến khủng hoảng nợ xấu
Trong báo cáo triển vọng hệ
thống ngân hàng 2014, công bố ngày 18/2
vừa qua, Moody’s đánh giá tỷ lệ những tài sản chất lượng “có vấn đề” (nợ xấu)
ít nhất phải chiếm 15%, thay vì chỉ 4,7% nợ dưới chuẩn như Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam công bố tháng 10/2013. Điều đó cho thấy nợ xấu hiện nay là một
vấn đề nóng đối với hệ thống tài chính mà một trong những nguyên
chính là do khả năng thẩm định của ngân hàng chưa cao, dẫn đến việc
cho vay đối với những khách hàng không thực sự đảm bảo được khả năng
trả nợ.
Nguyên nhân dẫn đến nợ
xấu là thẩm định, quyết định cho vay, kiểm tra sử dụng vốn vay, giám sát tình
hình sản xuất kinh doanh của khách hàng chưa tuân thủ đúng quy định. Công tác
phân tích, đánh giá, phân loại khách hàng, lĩnh vực kinh doanh chưa sát với thị
trường để có biện pháp ứng xử kịp thời. Việc đánh giá tài sản đảm bảo cao hơn
giá trị thực tế, nhận tài sản đảm bảo không đầy đủ tính pháp lý, có tranh chấp
dẫn tới tình trạng khó xử lý, phát mại hoặc phát mại được thì giá trị thu hồi
thấp. Một số tổ chức tín dụng áp dụng chiến lược tăng trưởng tín dụng nhanh
trong khi năng lực quản trị rủi ro còn nhiều hạn chế và chậm được cải thiện, đặc
biệt là các ngân hàng thương mại cổ phần chuyển đổi từ nông thôn lên đô thị dẫn
đến nợ xấu tăng nhanh hơn dư nợ tín dụng...
Một nguyên nhân khác dẫn
đến tình trạng thẩm định yếu kém của ngân hàng là nguồn cung cấp
thông tin hạn chế. Nếu một Ngân hàng nắm bắt kip thời những thông tin về kinh tế,
xã hội, thị trường thì Ngân hàng đó sẽ đưa ra những phương hướng hoạt đồng kinh
doanh nói chung và hoạt động cho vay nói riêng phù hợp. Những thông tin về
khách hàng chính xác thì hoạt động cho vay của Ngân hàng đối với từng khách
hàng sẽ hợp lí hơn và chủ động hơn. Điều đó sẽ giúp cho Ngân hàng không bỏ lỡ
nhiều cơ hội cho vay tốt, đồng thời hạn chế được những rủi ro cho những khoản
cho vay của mình. Ngược lại nếu thông không kịp thời, chính xác thì Ngân hàng sẽ
cho vay không hợp lí. Cho vay qúa thấp sẽ hạn chế khả năng sản xuất của doanh
nghiệp do lượng vốn đi vay chưa đủ để doanh nghiệp đầu tư toàn diện. Nhưng nếu
cho vay quá cao so với nhu cầu và khả năng thanh toán của khách hàng do thông
tin về khách hàng này là tốt trong khi thực tế thì không phải như vậy, cho nên
khi khách hàng làm ăn thua lỗ sẽ không có khả năng trả hết nợ.
Thực tế ở Việt Nam , tiếp cận
thông tin chính xác, kịp thời, đầy đủ là khó khăn. Và khả năng cho vay còn nhiều
hạn chế. Thực sự, ngoài những thông tin do khách hàng cung cấp, cán bộ tín dụng
cũng gặp nhiều khó khăn với các kênh thông tin về khách hàng. Rất khó kiểm chứng
được toàn bộ những thông tin mà khách hàng cung cấp cho ngân hàng. Tâm lý một số
cán bộ muốn đẩy phần rủi ro cho ngân hàng khác bằng cách chỉ cung cấp thông tin
tốt về khách hàng đó khi ngân hàng bạn hỏi thăm. Ngân hàng vẫn chưa có sự liên
thông với các cơ quan khác như Thuế, Hải quan,... để kiểm chứng những thông tin
tài chính do khách hàng cung cấp. Trừ những doanh nghiệp lớn, các công ty cổ phần
do yêu cầu phải kiểm toán cáo báo cáo tài chính của các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Hệ thống kế toán của chúng ta còn nhiều bất cập và chưa hoàn toàn thống nhất với
các chuẩn mực của hệ thống kế toán thế giới. Thậm chí còn có doanh nghiệp sử dụng
đồng thời hai hệ thống kế toán, một luôn lỗ hay lợi nhuận rất thấp để đối phó với
cơ quan thuế và một rất đẹp đẽ khi đặt quan hệ giao dịch với ngân hàng.
2.4 Về phía KH không đáp ứng được
tiêu chuẩn cho vay
Thực tế thị trường lãi suất
đã ghi nhận, lãi suất cho vay có giảm, hiện chỉ dao động từ 7- 11% một năm với
kỳ hạn ngắn và 12- 13% với trung và dài hạn. Nhiều DN và hiệp hội thừa nhận lãi
suất không còn là trở ngại. Thay vào đó, vấn đề nằm ở việc họ không đáp ứng
được quy định tài sản đảm bảo khi đi vay.
Do cuộc khủng hoảng nợ xấu,
giờ các ngân hàng thận trọng hơn đối với kết quả kinh doanh của DN. Một trong
những tiêu chí để DN được vay vốn là tiêu chí về lợi nhuận trong vài năm gần
nhất. Tuy nhiên, trong bối cảnh kinh tế khó khăn hiện nay, việc DN hòa vốn đã
là việc khó chưa kể đến việc liên tục có lãi nên khó có thể đáp ứng được tiêu
chí về mặt sinh lời để được hưởng lãi suất thấp.
Để có thể vay được vốn vay,
cách dễ nhất là có tài sản thế chấp. Thế nhưng, tài sản thế chấp thường được
ngân hàng định giá quá thấp so với giá thị trường, nên DN không đủ điều kiện
vay vốn. Nếu có cho vay thì tiền vay cũng không được nhiều, không đủ để giải quyết
khó khăn cho DN..
3.
Giải pháp
3.1
Hoàn thiện khuôn khổ pháp luật ngân hàng
Dự thảo Luật cần phù hợp với
các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia ký kết và thông lệ, chuẩn mực quốc
tế về ngân hàng, tạo điều kiện thuận lợi cho hội nhập quốc tế của nền kinh tế
nước ta.
Có
những quy định rõ ràng về tiêu chuẩn cho vay phù hợp với từng giai
đoạn kinh tế để các doanh nghiệp có thể tiếp cận nguồn vốn vay một
cách dẽ dàng hơn.
3.2
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Ngân
hàng Nhà nước có vai trò quan trọng trong việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng
cao cho ngành. Với vai trò quản lý nhà nước đối với toàn ngành, đang quản lý
song trùng hai cơ sở đào tạo đại học và một số phân hiệu đào tạo trung cấp, cao
đẳng của ngành, NHNN cần:
-
Xây dựng chiến lựợc phát triển nguồn nhân lực trung và dài hạn trên cơ sở chiến
lược phát triển của cả hệ thống Việt Nam đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030,
trong đó có nguồn nhân lực cho NHNN.
-
Xây dựng cơ chế với trách nhiệm và quyền lợi rõ ràng trong việc huy động chuyên
gia/cán bộ giỏi ở các ngân hàng, các trung tâm/trường trong Hệ thống tham gia
công tác đào tạo (chính khóa và ngoại khóa) với các Đại học/Học viện.
-
Coi việc tiếp nhận sinh viên về thực tập tại các ngân hàng là nhiệm vụ của mỗi
ngân hàng. Khuyến khích các ngân hàng hàng năm căn cứ vào nhu cầu cần tuyển dụng
đặt hàng cho các Đại học/học viện (khi chưa có cơ chế đào tạo theo đơn đặt
hàng), đào tạo theo đơn đặt hàng với số lượng chất lượng và mức kinh phí kèm
theo. NHNN coi việc đảm bảo chất lượng đầu ra theo yêu cầu “đơn đặt hàng” của
ngân hàng là một trong những tiêu chuẩn đánh giá sự nỗ lực của các Đại học/học
viện trong hệ thống.
- Để
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ngân hàng, ngân hàng Nhà nước cần nhanh
chóng chuẩn hóa tiêu chuẩn cán bộ ở các vị trí trong yếu trong hoạt động ngân
hàng, trong đó phải chú trong đến tiêu thức cấp độ kiến thức phải đạt được.
3.3 Tăng cường công tác
thu thập và xử lý thông tin.
Thu thập, phân tích và
xử lý kịp thời, chính xác các thông tin lien quan đến hoạt động tín
dụng là điều kiện hết sức cần thiết, giúp nâng cao hiệu quả của
công tác tín dụng và hạn chế rủi ro.
Trong giai đoạn thẩm định
dự án, giai đoạn quyết định sự an toàn của khoản tín dụng – cán bộ
tín dụng phải nắm bắt được những thông tin tài chính cũng như các
thông tin phi tài chính của doanh nghiệp để ra quyết định cho vay bảo
đảm có hiệu quả. Các thông tin tài chính như khả năng tài chính, kết
quả kinh doanh, khả năng trả nợ, giá trị tài sản thế chấp… Các thông
tin phi tài chính như tư cách, uy tín, năng lực quản lý, năng lực sản
xuất kinh doanh… Yêu cầu của thông tin là phải chính xác, đầy đủ và
kịp thời. Trên cơ sở những thông tin thu thập được cần phân tích cẩn
thận để có quyết định chính xác, tránh để xảy ra rủi ro do khách
hàng sử dụng các thủ đoạn lừa đảo, giả mạo hồ sơ vay vốn hay tận
dụng các sơ hở của pháp luật để dùng một tài sản thế chấp vay vốn
nhiều ngân hàng khác nhau.
Sau khi cho vay vốn, vấn
đề đặt ra là phải giám sát người vay, đảm bảo sử dụng vốn vay đúng
mục đích và đúng tiến độ. Việc giám sát có thể được thực hiện qua
nhiều hính thức như kiểm tra định kỳ các báo cáo tài chính của
doanh nghiệp, kiểm tra tính hình sản xuất kinh doanh thực tế, kiểm tra
khả năng chi trả, thanh toán của doanh nghiệp… Kịp thời phát hiện
những rủi ro tín dụng để sớm có những biện pháp xử lý kịp thời.
3.4 Xây dựng, phát triển hệ thống
thông tin minh bạch, rõ ràng.
IV . Vấn đề tài sản đảm bảo trong hoạt động cho vay tại Việt
Nam
- Sự cần thiết của bảo
đảm tín dụng trong hoạt động cho vay của ngân hàng
Trong hoạt động kinh
doanh của ngân hàng thì rủi ro về tín dụng là rủi ro dẫn đến tổn thất lớn nhất
cho ngân hàng, vì vậy cần thiết phải thực hiện các biện pháp đảm bảo nghĩa vụ
trả nợ của khách hàng đi vay, trong đó là việc phải có TSĐB khi đi vay. Có thể
nói, việc quy định phải có TSĐB khi đi vay nhằm:
-
Giảm bớt tổn thất cho ngân hàng khi khách hàng không thanh
toán được nợ cho ngân hàng.
-
TSĐB là động lực thúc đẩy buộc khách hàng phải thực hiện
nghĩa vụ trả nợ, vì nếu không, khách hàng sẽ mất những tài sản có giá trị và tốn
kém chi phí nhiều hơn.
-
Ngoài ra, việc ngân hàng nắm giữ TSĐB là nhằm xác định rõ tài
sản mà ngân hàng có thể phong toả và bán, đồng thời nhằm thông báo cho các tổ
chức khác biết ngân hàng có quyền hợp pháp trong mặt phát mại tài sản nếu khách
hàng không có khả năng hoàn trả khoản vay. Ngân hàng sẽ được xếp thứ tự ưu tiên
về quyền quyết định đối với tài sản so với các chủ nợ khác.
2. Văn bản pháp luật điều chỉnh
-
Nghị định số 178/1999/NĐ-CP của Chính phủ về đảm bảo tiền vay
- Nghị định số 85/2002/
NĐCP về sửa đổi, bổ sung Nghị định số 178/1999/NĐ-CP
về đảm bảo tiền vay của các TCTD
- Nghị định 163//2006/NĐ- Chính phủ (29/12/2006 Về
giao dịch bảo đảm
- NGH Ị
ĐỊNH Số: 11/2012/NĐ-CP Về sửa đổi, bổ sung một số điều
của Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29 tháng 12 năm 2006 của Chính phủ về giao
dịch bảo đảm
1. Khái niệm tài sản bảo đảm, phân
loại tài sản bảo đảm
Tài sản bảo
đảm là tài sản mà bên bảo đảm dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự đối với
bên nhận bảo đảm (Khoản 7, Điều 3 Nghị định 163//2006/NĐ- Chính phủ (29/12/2006 ) về giao dịch bảo
đảm).
Tài sản bảo
đảm bao gồm: Động sản (động sản không phải đăng ký quyền sở hữu và động sản
phải đăng ký quyền sở hữu) và Bất đông sản .
Tài sản đảm
bảo tồn tại dưới ba hình thức chủ yếu là vật, giấy tờ có giá và quyền tài sản
-Tài sản đảm bảo là vật như phương tiện giao thông, kim khí đá quý, máy móc thiết
bị, nguyên nhiên vật liệu, hàng hóa -Tài sản đảm bảo là các giấy tờ có giá như
cổ phiếu, trái phiếu, hối phiếu, kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, séc,
chứng chỉ quỹ, giấy tờ có giá khác theo quy định của pháp luật, trị giá được
thành tiền và được phép giao dịch- Tài sản đảm bảo là quyền tài sản như quyền
tài sản phát sinh từ quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đòi nợ, quyền
được nhận bảo hiểm, quyền góp vốn kinh doanh, quyền khai thác tài nguyên, lợi tức
và các quyền phát sinh từ tài sản cầm cố, các quyền tài sản khác.
2. Quy định pháp luật về tài sản bảo đảm
a)
Tài sản bảo đảm có thể là vật (Điều 320 BLDS 2005); tiền, giấy tờ có giá (Điều
321 BLDS 2005) hoặc quyền tài sản (Điều 322 BLDS 2005).
Ngoài điều
kiện tài sản thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm và được phép giao dịch, nếu
phát luật có quy định khác về điều kiện đối với tài sản bảo đảm thực hiện nghĩa
vụ thì phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện đó (Ví dụ: quy định nhà ở chỉ được
dùng để bảo đảm cho các khoản vay tại một tổ chức tín dụng).
Các tài sản
sau đây sẽ đương nhiên trở thành tài sản bảo đảm mà không phải thể hiện trong
hợp đồng bảo đảm, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác:
- Khoản tiền bảo hiểm trong trường hợp tài sản bảo đảm được bảo hiểm (Điều 346 BLDS 2005);
- Khoản tiền bảo hiểm trong trường hợp tài sản bảo đảm được bảo hiểm (Điều 346 BLDS 2005);
- Các vật
phụ của tài sản bảo đảm trong trường hợp thế chấp toàn bộ tài sản đó (Khoản 1
điều 342 BLDS 2005). Riêng trường hợp người sử dụng đất thế chấp quyền sử dụng
đất thì nhà, công trình xây dựng khác, rừng trồng, vườn cây và các tài sản khác
của người thế chấp gắn liền với đất chỉ thuộc tài sản thế chấp nếu có thỏa thuận
(Khoản 2 điều 716 BLDS 2005);
- Quyền
yêu cầu thanh toán, tiền hoặc tài sản hình thành từ số tiền thu được từ việc
bán tài sản bảo đảm là hàng hóa luân chuyển trong quá trình sản xuất, kinh
doanh (Khoản 3 điều 349 BLDS 2005);
- Các khoản
tiền thu được, quyền yêu cầu thanh toán hoặc tài sản khác có được từ việc mua
bán, trao đổi tài sản thế chấp mà không có sự đồng ý của bên nhận thế chấp, khi
bên nhận thế chấp không thực hiện quyền thu hồi thế chấp (Khoản 2 điều 20 Nghị
định 163/2006/NĐ-CP);
b) Tài sản
bảo đảm là tài sản hiện có hoặc tài sản hình thành trong tương lai (Khoản 2 điều
320 BLDS 2005).
Theo quy định
tại khoản 2 Điều 4 Nghị định 163/2006/NĐ-CP thì “Tài sản hình thành trong tương
lai là tài sản thuộc sở hữu của bên bảo đảm sau thời điểm nghĩa vụ được xác lập
hoặc giao dịch bảo đảm được giao kết. Tài sản hình thành trong tương lai bao gồm
cả tài sản đã tồn tại vào thời điểm giao kết giao dịch bảo đảm, nhưng sau thời
điểm giao kết giao dịch bảo đảm mới thuộc sở hữu của bên bảo đảm”. Như vậy,
tiêu chí duy nhất để xác định tài sản hình thành trong tương lai là thời điểm
tài sản đó thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm.
Trong trường
hợp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bằng tài sản hình thành trong tương lai thì khi
bên bảo đảm có quyền sở hữu một phần hoặc toàn bộ tài sản bảo đảm, bên nhận bảo
đảm có các quyền đối với một phần hoặc toàn bộ tài sản đó. Đối với tài sản pháp
luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu mà bên bảo đảm chưa đăng ký thì bên nhận
bảo đảm vẫn có quyền xử lý tài sản khi đến hạn xử lý (Điều 8 Nghị định
163/2006/NĐ-CP).
Trong trường hợp giao dịch bảo đảm được giao kết hợp pháp và có giá trị pháp lý đối với người thứ ba thì Tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác không được kê biên tài sản bảo đảm để thực hiện nghĩa vụ khác của bên bảo đảm, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Trong trường hợp giao dịch bảo đảm được giao kết hợp pháp và có giá trị pháp lý đối với người thứ ba thì Tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác không được kê biên tài sản bảo đảm để thực hiện nghĩa vụ khác của bên bảo đảm, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
c) Một
tài sản dùng để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ dân sự.
Khác với
BLDS 1995, BLDS 2005 đã quy định cụ thể tại Điều 324 về việc một tài sản có thể
được dùng để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ dân sự. Theo điều luật này thì một
tài sản có thể được dùng để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ dân sự khi có các
điều kiện: (1) Tài sản bảo đảm có giá trị tại thời điểm xác lập giao dịch bảo đảm
lớn hơn tổng giá trị các nghĩa vụ được bảo đảm, (nhưng) trừ trường hợp có thỏa
thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác; (2) Bên bảo đảm phải thông báo cho
bên nhận bảo đảm sau biết về việc tài sản bảo đảm đang được dùng để bảo đản thực
hiện nghĩa vụ khác và (3) Mỗi lần bảo đảm phải được lập thành văn bản.
Nghị định số
163/2006/NĐ-CP tại Điều 5 đã chính thức quy định: “… các bên có thể thoả thuận
dùng tài sản có giá trị nhỏ hơn, bằng hoặc lớn hơn tổng giá trị các nghĩa vụ được
bảo đảm, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”.
d)
Nhiều tài sản dùng để bảo đảm thực hiện một nghĩa vụ dân sự.
Trong trường
hợp nhiều tài sản dùng để bảo đảm thực hiện một nghĩa vụ dân sự thì mỗi tài sản
được xác định bảo đảm thực hiện toàn bộ nghĩa vụ, nếu các bên không có thỏa thuận
khác (Điều 334, Điều 347 BLDS 2005). Như vậy, các bên có thỏa thuận mỗi tài sản
bảo đảm thực hiện một phần nghĩa vụ, nhưng phải ghi rõ trong hợp đồng phần
nghĩa vụ được bảo đảm bằng mỗi tài sản. Các bên có thể lập một hợp đồng bảo đảm
hoặc nhiều hợp đồng bảo đảm khác nhau để thỏa thuận về việc nhiều tài sản bảo đảm
thực hiện một nghĩa vụ dân sự .
Khi xử lý
tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ đã đến hạn, thì bên nhận bảo đảm được lựa
chọn tài sản cụ thể trong số các tài sản bảo đảm để xử lý, trừ trường hợp có thỏa
thuận cụ thể về thứ tự xử lý tài sản bảo đảm. (Điều 7 Nghị định
163/2006/NĐ-CP).
3. Khái niệm về bảo đảm tín dụng
3.1. Khái niệm
Bảo đảm tín dụng là việc
bảo vệ quyền lợi của người cho vay dựa trên cơ sở thế chấp, cầm cố tài sản thuộc
sở hữu của người đi vay hoặc bảo lãnh của bên thứ ba. Đây chính là nguồn thu nợ
thứ hai khi nguồn thu nợ thứ nhất (bao gồm doanh thu và lợi nhuận trong cho vay
kinh doanh, thu nhập của cá nhân trong cho vay tiêu dùng) không thể thanh toán
được nợ.
3.2 Các đặc
trưng của bảo đảm tín dụng
-
Giá trị TSĐB phải lớn hơn nghĩa vụ được đảm bảo. Nghĩa vụ được
đảm bảo bao gồm cả vốn gốc và lãi (kể cả lãi quá hạn).
-
TSĐB phải có thị trường liên tục. Nhờ đó, ngân hàng có thể
bán hoặc phát mại tài sản đó khi khách hàng không trả được nợ.
-
TSĐB phải thuộc sở hữu hợp pháp của người đi vay hay người bảo
lãnh và được pháp luật cho phép giao dịch.
4. Các hình thức bảo đảm tín dụng bằng tài sản
4.1. Thế chấp tài sản
Thế chấp
tài sản là việc một bên (bên thế chấp) dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để bảo
đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự đới với bên kia (bên nhận thế chấp) và không chuyển
giao tài sản đó cho bên nhận thế chấp. Theo quy định của pháp luật ngân hàng, để
có thể vay vốn từ các tổ chức tín dụng, người vay được lựa chọn hai hình thức
là vay có tài sản thế chấp và vay không có tài sản thế chấp. Việc vay vốn không
có tài sản thế chấp thường được thực hiện đối với những đối tượng có nhu cầu
vay tiêu dùng với số lượng tiền vay ít. Thông thường, trong các trường hợp vay
phục vụ mục đích sản xuất, kinh doanh, các doanh nghiệp, cá nhân phải có tài sản
thế chấp hoặc có sự bảo đảm của bên thứ ba.
Là việc bên đi vay dùng
tài sản là bất động sản thuộc sở hữu của mình hoặc giá trị quyền sử dụng đất hợp
pháp để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ đối với bên cho vay.
Bất động sản là tài sản
không thể di dời được: nhà ở, các cơ sở kinh doanh như nhà máy, khách sạn, cửa
hàng, nhà kho,… và các tài sản khác gắn liền với đất. Giá trị quyền sử dụng đất
là giá trị của quyền được sử dụng ổn định lâu dài các loại đất do nhà nước giao
cho trong trường hợp người đi vay không có quyền sở hữu đối với đất đai.
4.2. Cầm cố tài sản
- Là việc bên đi vay giao
là tài sản là động sản thuộc sở hữu của chính mình cho bên vay để đảm bảo thực
hiện nghĩa vụ trả nợ.
- Các loại tài sản cầm
cố thông dụng:
+ Cầm cố hàng hoá:
nguyên vật liệu dùng cho sản xuất, hàng hoá tiêu dùng và xuất khẩu, thiết bị,
máy móc, dây chuyền sản xuất, xe cộ thông dụng,…
+ Chiết khấu ký hoá phiếu:
Ký hoá phiếu là biên
lai do công ty kinh doanh kho phát hành cho người ký thác hàng hoá tại kho của
công ty.
Khi người ký thác hàng
hoá có nhu cầu vốn ngắn hạn, họ có thể đến ngân hàng xin vay trên cơ sở đảm bảo
bằng hàng hoá đã ký thác tại công ty kinh doanh kkho. Số tiền được vay trên cơ
sở đảm bảo bằng hàng hoá ngân hàng giữ lại phần để đảm bảo an toàn cho tiền
vay. Trường hợp cho vay này được gọi là chiết khấu.
+ Bảo đảm bằng tiền gửi:
Tiền gửi dùng làm đảm bảo
cho khoản ứng trước của ngân hàng chủ yếu là tiền gửi có kỳ hạn và tiết kiệm,
còn với tiền gửi thanh toán khi dùng làm đảm bảo cho ngân hàng thì phải được
chuyển sang một tài khoản phong toả.
+ Bảo đảm bằng vàng:
Là hình thức bảo đảm
trong cho vay cá nhân. Vàng dùng làm đảm bảo được ký gửi và bảo quản trong ngân
hàng. Các ngân hàng phải tiến hành phân kim và định giá vàng, làm cơ sở để xác
định mức vay.
+ Cầm cố các chứng
khoán:
Giá trị của các chứng
khoán phần lớn được xác định theo giá thị trường chứ không phải theo mệnh giá của
chúng. Vì vậy khi cần cho vay cầm cố bằng chứng khoán, ngân hàng phải nghiên cứu
mức đọ rủi ro của từng loại chứng khoán.
Ngoài ra còn một số các
hình thức khác được các ngân hàng ở các nước phát triển sử dụng như: bảo đảm bằng
các khoản phải thu, bảo đảm bằng hợp đồng nhận thầu, bảo đảm bằng hợp đồng bảo
hiểm nhân thọ,…
4.3. Bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba
- Là việc bên thứ ba
cam kết với tổ chức tín dụng cho vay về việc sử dụng tài sản thuộc sỏ hữu của
mình để thực hiện nghĩa vụ trả nợ thay cho khách hàng vay, nếu đến hạn trả nợ
mà khách hàng vay không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ trả nợ.
- Gồm:
+ Bảo lãnh một phần hoặc
toàn bộ nghĩa vụ hay số nợ phải thanh toán cho ngân hàng
+ Bảo lãnh riêng biệt
và bảo lãnh duy trì
Bảo lãnh riêng biệt là
hình thức được áp dụng cho một số tiền vay cụ thể theo hợp đồng tín dụng và được
hạch toán riêng trên tài khoản cho vay.
Bảo lãnh duy trì là
hình thức bảo lãnh cho một loạt các giao dịch và mức bảo lãnh theo hạn mức tối
đa.
- Tài sản bảo lãnh của
bên thứ ba:
•
Nhà ở;
•
Nhà máy, nhà kho;
•
Cửa hàng, khách sạn,…
•
Cầm cố hàng hóa; chứng
khoán
•
Chiết khấu ký hóa phiếu
•
Bảo đảm bằng tiền gửi;
vàng…
- Rủi ro nhận thế chấp
tài sản của bên thứ ba:
Bên đứng ra bảo lãnh
cho bên vay vốn là người thân, bạn bè của họ, nhưng khi phát sinh nghĩa vụ bảo
lãnh thì họ tìm cách thoái thác dẫn đến ngân hàng có nguy cơ mất vốn. Bởi nếu hồ
sơ, thủ tục cho vay được thẩm định chặt chẽ,thì ngân hàng có quyền xử lý tài sản
thế chấp, nhưng ngược lại, nếu hồ sơ cho vay có vấn đề, hợp đồng thế chấp vô hiệu
thì bên thứ ba có quyền rút tài sản ra.
Trong những rủi ro khi
nhận tài sản bảo đảm của bên thứ ba, yếu tố quản trị rủi ro ngân hàng rất
quan trọng. Những trường hợp không đủ điều kiện xử lý tài sản bảo đảm thường là
do nhân viên ngân hàng không làm đúng quy trình, quy định. “Khi nhận tài sản thế
chấp từ bên thứ ba, ngân hàng cần cẩn thận hơn, kiểm tra lại đối với người có
tài sản, như vậy sẽ tránh được các trường hợp giả mạo chữ ký, cũng hạn chế được
rủi ro.
Ví dụ, vụ đòi nợ của
Techcombank đối với một cá nhân (quận Thanh Xuân, Hà Nội), trong đó cá nhân này
vay 410 triệu đồng thông qua 2 hợp đồng tín dụng, tài sản bảo đảm là quyền sử dụng
đất và tài sản gắn liền trên đất của một gia đình ở huyện Đan Phượng (Hà Nội).
Khi người vay tiền không trả nợ, Ngân hàng đòi siết nhà thì gia đình có đất mới
biết, cả gốc và lãi của khoản nợ là 510 triệu đồng. Trong khi theo gia đình
này, họ chỉ cần vay 100 triệu đồng và thực tế chỉ nhận được 88 triệu đồng, sau
khi đã trừ lãi và phí. Tuy nhiên, do hợp đồng thế chấp đúng là do gia đình này
ký, đã đăng ký giao dịch bảo đảm, nên Tòa án tuyên Techcombank có quyền phát mại
tài sản trong trường hợp người đi vay không trả được nợ.
4.4. Bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay
Là việc bên đi vay dùng
tài sản của mình mà giá trị của tài sản được tạo nên bởi một phần hoặc toàn bộ
khoản vay của tổ chức tín dụng để đảm bảo cho chính khoản vay đó.
4.4.1. Điều kiện đối với khách hàng vay
được bảo đảm tiền vay bằng tài sản hình thành từ vốn vay:
+ Có khả năng tài chính để thực hiện
nghĩa vụ trả nợ.
+ Có dự án đầu tư, phương án sản xuất,
kinh doanh, dịch vụ khả thi và có hiệu quả; hoặc có dự án đầu tư, phương án phục
vụ đời sống khả thi phù hợp với quy định của pháp luật.
+ Có mức vốn tự có tham gia vào dự án đầu
tư hoặc phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, đời sống và giá trị tài sản bảo
đảm đáp ứng được một trong ba trường hợp sau:
- Có vốn tự có tối thiểu bằng 15% tổng
mức vốn đầu tư.
- Có vốn tự có cộng (+) với giá trị tài
sản bảo đảm tiền vay tối thiểu bằng 15% tổng mức vốn đầu tư.
- Có giá trị tài sản bảo đảm tiền vay tối
thiểu bằng 15% tổng mức vốn đầu tư.
4.4.2. Điều kiện đối với tài sản hình
thành từ vốn vay làm bảo đảm tiền vay:
-
Tài sản phải xác định được quyền sở hữu hoặc quyền quản lý, sử dụng; xác
định được giá trị, số lượng và được phép giao dịch.
- Đối với tài sản là vật tư, hàng hóa,
ngoài việc có đủ điều kiện theo khoản 2.1 nói trên chi nhánh NHNo phải có khả
năng quản lý, giám sát.
- Đối với tài sản mà pháp luật có quy định
phải mua bảo hiểm, khách hàng vay phải cam kết (bằng văn bản) mua bảo hiểm khi
tài sản đã được hình thành đưa vào sử dụng.
5.
Các
nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng bảo đảm bằng tài sản của NHTM
5.1.
Nhân tố thuộc về ngân hàng
-
Trình độ cán bộ tín dụng:
Từ việc có nghiệp vụ tốt
để thẩm định, đánh giá tài sản đảm bảo, phân tích và dự báo được biến động của
tài sản đảm bảo, thực hiện công chứng, chứng từ, định kỳ tái thẩm định tài sản
đảm bảo đến việc phải có đạo đức, nhạy bén trong phân tích sự việc để thẩm định
được chính xác, hợp lệ và khách quan.
-
Công tác giám sát khách hàng
5.2.
Nhân tố thuộc về khách hàng
-
Đạo đức, uy tín của khách hàng vay vốn
-
Tài chính của khách hàng
5.3.
Nhân tố thuộc về môi trường
-
Các văn bản được ban hành: quyết định, nghị định, thông tư,
công văn, chỉ thị…
-
Những bộ luật tác động trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của
ngân hàng: Luật các tổ chức tín dụng, Luật Ngân hàng nhà nước,…
6.
Xử
lí tài sản bảo đảm
Tài sản bảo
đảm là “phao cứu sinh” của ngân hàng khi khách hàng mất khả năng trả nợ. Tuy
nhiên, hiện nhiều nhà băng bị "chết đuối" bởi chiếc phao này.
Thực tế, khi
khách hàng chây ỳ trả nợ, không chịu phối hợp xử lý tài sản bảo đảm, ngân hàng
chỉ có cách kiện ra tòa. Phải trải qua vài ba năm, qua rất nhiều cấp xét xử như
sơ thẩm, phúc thẩm, có khi lại giám đốc thẩm để xử lại từ sơ thẩm…, ngân hàng mới
nhận được một bản án, quyết định có hiệu lực làm căn cứ yêu cầu thi hành án.
Thậm chí, những vụ
án cá biệt có thể kéo dài 5 - 7 năm. Giai đoạn thi hành án để xử lý tài sản bảo
đảm cũng phức tạp không kém. Chưa kể, việc xử lý còn phức tạp hơn khi các cơ
quan tài phán còn có những nhận thức không nhất quán trong một số vấn đề liên
quan.
Hiện ngành ngân
hàng xử lý tài sản bảo đảm chủ yếu dựa vào Nghị định 163/2006/NĐ-CP quy định về
giao dịch bảo đảm và xử lý tài sản bảo đảm.
Theo đó, có 3
tình huống có thể xảy ra, thứ nhất là ngân hàng phối hợp với khách hàng để bán,
tức là khách hàng tự nguyện bán tài sản; thứ hai khi khách hàng không phối hợp,
ngân hàng có thể tự đứng ra bán tài sản và thứ ba là nhận tài sản đó để thay thế
nghĩa vụ trả nợ của khách hàng.
Tuy nhiên, cả 3
tình huống trên đều phát sinh khó khăn cho ngân hàng.
Nguyên nhân dẫn đến
nút thắt lớn trên chỉ đơn giản là do thiếu… một văn bản hướng dẫn thủ tục hành
chính. Đã vài năm nay, các cơ quan quản lý như ngân hàng, tư pháp, công an, tài
nguyên môi trường, xây dựng… vẫn chưa thể ban hành Thông tư liên tịch để hướng
dẫn thủ tục hành chính nhằm đảm bảo ngân hàng có thể xử lý nhanh chóng tài sản
bảo đảm. Thiếu đi hướng dẫn này, ngân hàng không thể tự mình bán tài sản bảo đảm,
ngay cả việc nhận tài sản bảo đảm đó để thay thế nghĩa vụ trả nợ cũng khó khăn,
bởi theo quy định của Bộ luật Dân sự, người bán phải là người có quyền sở hữu
tài sản đó.
- Việc ngân hàng tự xử
lý tài sản bảo đảm để thu nợ có thể gặp một số vướng mắc nhất định và phát sinh
nhiều chi phí không cần thiết ảnh hưởng đến khả năng thu nợ của ngân hàng, đặc
biệt là trong bối cảnh hiện nay sức mua yếu, nền kinh tế còn nhiều khó khăn và
thị trường bất động sản tiếp tục đóng băng. Cho nên, tài sản bảo đảm rất khó
bán và thường có giá trị thấp hơn nhiều so với giá trị tài sản bảo đảm lúc định
giá để cho vay. Hơn nữa, tư cách chủ thể tham gia giao dịch mua bán tài sản bảo
đảm của ngân hàng vẫn còn có các ý kiến khác nhau. Trong quá trình thực hiện
các thủ tục xử lý tài sản bảo đảm để thu nợ, một số cơ quan chức năng cho rằng,
ngân hàng không đủ tư cách đại diện được ủy quyền của chủ sở hữu để bán/chuyển
nhượng tài sản bảo đảm vì các văn bản quy phạm pháp luật chuyên ngành (pháp luật
về đất đai, pháp luật về nhà ở…) quy định bên bán/chuyển nhượng tài sản phải là
chủ sở hữu hoặc người được chủ sở hữu ủy quyền. Ngân hàng là một tổ chức có tư
cách pháp nhân, nên ngân hàng không thuộc đối tượng được ủy quyền theo quy định
của Bộ luật Dân sự. Trong quá trình xử lý tài sản bảo đảm để thu nợ, các cơ
quan chức năng ở một số địa phương (điển hình là cơ quan công chứng, cơ quan cấp
giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản…) không chấp nhận ngân hàng là người được ủy
quyền để bán/chuyển nhượng tài sản bảo đảm cho tổ chức/cá nhân khác. Các cơ
quan chức năng này cho rằng, người được ủy quyền để xử lý tài sản bảo đảm chỉ
có thể là cá nhân (người), không thể là tổ chức. Ðể
tránh khiếu nại/khởi kiện từ phía khách hàng về việc ngân hàng tự bán/ủy quyền
cho tổ chức có chức năng bán đấu giá tài sản bảo đảm, ngân hàng đã phối hợp với
bên vay vốn bán tài sản bảo đảm. Hai bên thỏa thuận thuê một tổ chức có chức
năng định giá để xác định giá trị tài sản bảo đảm. Trên cơ sở giá tài sản bảo đảm
được xác định bởi tổ chức định giá, ngân hàng và bên vay vốn cùng ký hợp đồng với
tổ chức có chức năng bán đấu giá tài sản (trung tâm dịch vụ bán đấu giá, doanh
nghiệp bán đấu giá chuyên nghiệp…).
- Ðể xử lý được tài sản
bảo đảm là động sản (chủ yếu là phương tiện vận tải đường bộ và đường thủy: ô tô, tàu thủy,
xà lan…), trước hết ngân hàng phải thông báo cho bên bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bàn giao tài sản bảo đảm. Tuy nhiên, khi phương tiện vận tải
đang lưu thông, thì ngân hàng khó có thể thu giữ được tài sản đó nếu không có sự
phối hợp, hỗ trợ tích cực của công an và chính quyền địa phương. Mặt khác, trường
hợp bên bảo đảm có dấu hiệu chống đối, gây cản trở cho việc thu giữ tài sản của
ngân hàng, thì cơ quan công an và chính quyền địa phương chưa thực sự quyết liệt
phối hợp, hỗ trợ ngân hàng thu giữ, xử lý tài sản bảo đảm theo đề nghị của ngân
hàng.
- Trong bối cảnh nền tư pháp của Việt Nam hiện nay,
thủ tục khởi kiện bên vay/bên bảo đảm ra Tòa án để yêu cầu giải quyết việc trả
nợ thường kéo dài 2 – 3 năm và phát sinh nhiều chi phí. Cho nên, các ngân hàng
quan ngại với phương thức thu nợ bằng biện pháp khởi kiện khách hàng ra Tòa án.
Hầu hết các ngân hàng đều cho rằng, khởi kiện khách hàng ra Tòa án là biện pháp
“cực chẳng đã”, không còn sự lựa chọn nào khác để xử lý tài sản bảo đảm, thu hồi
nợ. Thế nhưng khi nộp đơn khởi kiện bên vay và/bên bảo đảm ra Tòa án, quyền khởi
kiện của ngân hàng chưa chắc được bảo đảm, ngay cả khi có được bản án, quyết định
có hiệu lực của Tòa án, việc xử lý tài sản bảo đảm của người phải thi hành án
cũng không dễ dàng.
7.
Thực
trạng và một số vụ vỡ nợ của ngân hàng liên quan tới việc cho vay có TSĐB
-
Hơn 60% giá trị tài sản đảm bảo tại 9 ngân hàng CTG, VCB,
ACB, EIB, STB, MBB, SHB, HBB, NVB năm 2012 là bất động sản. Viettinbank, VCB,
ACB có tài sản thế chấp bằng bất động sản lớn nhất, trong đó tại ACB, bất động
sản chiếm tới 80% tổng tài sản đảm bảo.

Nguồn: Báo cáo thường niên năm 2011/GAFIN
Tài sản đảm bảo của các ngân hàng chủ yếu là các
tài sản tài chính, hàng hóa nguyên vật liệu, máy móc thiết bị, bất động sản...,
trong đó tài sản đảm bảo là bất động sản chiếm tới 62% (945,4 nghìn tỷ đồng).
Ngoài ra, hiện nay giá trị tài sản đảm bảo của 9 tổ chức này chiếm tới
173% tổng dư nợ, trong khi để đảm bảo an toàn, các tổ chức tín dụng thường cho
vay bằng 70 - 75% giá trị tài sản đảm bảo. Như vậy, có thể xảy ra trường hợp
các ngân hàng có thể gặp khó khăn trong việc phát mãi tài sản đảm bảo để xử lý
nợ xấu, mà cái khó có lẽ nằm ở các tài sản đảm bảo là bất động sản khi mà thị
trường bất động sản hiện "đóng băng", giá giảm sút.
Vụ việc liên quan đến ngân hàng ACB và ông
Nguyễn Đức Kiên– nguyên Phó chủ tịch Hội đồng sáng lập ACB – là Chủ tịch hoặc
là thành viên Hội đồng Quản trị, tổng
cộng dư nợ từ các khoản cho vay và phải thu liên quan đến nhóm 6 công ty của
bầu Kiên là 7.415 tỉ đồng. Các khoản tiền vay này đều có tài sản thế chấp trong
đó cổ phiếu của tổ chức tín dụng khác là 3.458 tỉ đồng; cổ phiếu của doanh
nghiệp chưa niêm yết là 1.989 tỉ đồng; góp vốn vào doanh nghiệp 925 tỉ đồng và
bảo lãnh của ngân hàng khác 750 tỉ.
-
Nhiều
ngân hàng bị quỵt nợ
+ Công ty TNHH Trường Ngân (tỉnh Bình Dương) từ 4 năm trước đã là 1 doanh
nghiệp xuất khẩu nông sản với kim ngạch hàng triệu USD/năm. Nhưng đến nay, công
ty bất ngờ tạo cú sốc trên thị trường khi bị vỡ nợ. Chiều 11-12, Chi cục THA thị
xã Dĩ An (tỉnh Bình Dương) đã hoàn thành việc cưỡng chế kho cà phê của công ty
này. Công tác kiểm kê cho thấy công ty này đã đưa 3.360 tấn để cầm cố cho 7
ngân hàng vay 600 tỷ đồng. Khi cơ quan công an đến kiểm tra thì chỉ còn 1.500 tấn
hàng, còn 700 tấn là cà phê, số còn lại là vỏ, rác và tạp chất không có giá trị
về kinh tế.
+ BIDV và Vietcombank đã cho Công ty Minh Chí, địa chỉ ở 52A
Đồng Xoài, phường 13, quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh và một số công ty
con được lập ra cũng với mục đích vay vốn, tổng cộng dư nợ cho vay khoảng 400 tỉ
đồng. Tài sản để doanh nghiệp thế chấp vay là hơn 5.000 tấn cà phê mà giá trị
thực chỉ bằng 1/10 giá trị trên giấy tờ, được các ngân hàng “định giá lại” sau
khi doanh nghiệp vỡ nợ và đại diện các công ty con trong nhóm công ty Minh Chí,
thực chất đều là một, cao chạy xa bay.
+ Năm 2011, năm ngân hàng TP Cần Thơ tranh chấp quanh kho hàng của Công ty
Chế biến thuỷ sản An Khang với số tiền là 305 tỷ đồng. Khi công ty này có dấu
hiệu mất khả năng chi trả, các ngân hàng mới tá hoả phát hiện hàng hoá tồn kho
luân chuyển tổng cộng 1.000 tấn mà công ty này dùng để thế chấp , bên cạnh tài
sản bất dộng sản dùng để thế chấp là một kho hàng hoàn toàn rỗng.
+ Vụ ông Lâm Ngọc Khuân, nguyên chủ tịch HĐQT Công ty Cổ phần thực phẩm
Phương Nam (Sóc Trăng) “xuất ngoại”, bỏ lại khoản nợ hơn 1.500 tỷ đồng. Trong
đó, đáng chú ý là có khoảng 700 tỷ đồng liên quan đến tài sản thế chấp là hàng
tồn kho nhưng thực tế chỉ có vài chục tỷ đồng, đó là chưa kể lượng hàng đó còn
được thế chấp để vay ở các ngân hàng khác nữa.
+ Vụ công ty TNHH Trường Ngân là doanh nghiệp kinh doanh cà
phê, chuyên thu mua cà phê hạt về chế biến và xuất khẩu cà phê nguyên liệu.
Trong quá trình hoạt động, công ty Trường Ngân đã vay nợ rất nhiều ngân hàng với
số tiền hàng trăm tỷ đồng gồm: Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quốc Tế Việt Nam
(VIB), Ngân hàng Thương mại Cổ phần Kỹ Thương Việt Nam (Techcombank), Ngân hàng
Thương mại cổ phần Quân Đội (MB), Ngân hàng Công Thương Việt Nam (Vietinbank),
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam (Agribank), Ngân hàng
Phương Đông (OCB) và Ngân hàng Hàng Hải (Maritimebank). Các khoản vay của các
ngân hàng nói trên được thế chấp bằng các hợp đồng xuất khẩu cà phê cùng các
tài sản đảm bảo và bất động sản khác. Đến nay công ty không còn khả năng
trả nợ nên các ngân hàng không chỉ thu hồi bất động sản mà còn cho người đến
kho hàng công ty để xiết nợ, trông chờ vào số cà phê còn tồn đọng trong kho của
công ty này. Hàng chục bảo vệ của các ngân hàng tham gia tranh giành lẫn nhau
xung quanh kho cà phê đã gây náo động cả thị xã Dĩ An. Đây là sự việc chưa từng
xảy ra trên địa bàn Bình Dương khi các ngân hàng cùng tranh nhau xiết nợ một
doanh nghiệp.
-
Năm 2012, việc sở hữu chéo tại ngân hàng trở thành vấn đề nổi
cộm. Vietcombank, ACB, Maritime Bank, Eximbank… đều nắm giữ cổ phần lớn tại 1
hoặc một số ngân hàng khác. Trong trường hợp các ngân hàng thương mại
có cổ đông lớn là các doanh nghiệp thì rất có thể các ngân hàng thương mại trở
thành sân sau, chuyên huy động vốn từ dân để tài trợ cho các dự án của mình. Việc
sở hữu chéo giữa các ngân hàng tạo điều kiện cho các doanh nghiệp sở hữu ngân
hàng này có thể dễ dàng vay được vốn từ ngân hàng kia. Nhưng trường hợp này có
nguy cơ dẫn đến việc các ngân hàng thương mại sẽ tiến hành thẩm định vốn vay
thiếu cẩn trọng. Nếu đúng vậy, đây có thể là một trong những nguyên nhân quan
trọng dẫn đến nợ xấu ngân hàng tăng cao. Một trong số đó là việc thẩm định, định
giá sai tài sản đảm bảo trong việc thực hiện nghiệp vụ cho vay của ngân hàng,
gây hậu quả nghiệm trọng.
Comments
Post a Comment