Thực trạng tín dụng đầu tư phát triển và tín dụng xuất khẩu Việt Nam




Chương 1: Thực trạng tín dụng đầu tư
Ở Việt Nam, trong mỗi thời kỳ hoạt động tín dụng ĐTPT Nhà nước được giao cho các tổ chức khác nhau thực hiện.
1. Hoạt động tín dụng đầu tư tại Tổng cục Đầu tư phát triển Việt Nam và quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia (1990-1999)
       Đây là những năm ghi nhận sự ra đời và hoạt động của “Tổng cục đầu tư phát triển” và sau đó có thêm “Quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia” (1995), tín dụng đầu tư phát triển được thực hiện theo kế hoạch chỉ định với lãi suât ưu đãi bằng nguồn ngân sách chuyển hàng năm. Tổ chức cho vay không có sự độc lập và tự chủ về tài chính cũng như quyết định tài trợ dự án. Kế hoạch trả nợ dựa trên đặc điểm của dự án, việc thẩm định tính khả thi và khả năng trả nợ của dự án còn rất sơ khai, hầu như chỉ dừng lại ở tính đầy đủ, hợp lệ của hồ sơ và thủ tục do việc cho vay dựa trên kế hoạch chỉ định hàng năm, sự khác biệt so với trước đó chỉ thể hiện ở việc cho vay có tính lãi suất thu hồi vốn.
 2. Hoạt động tín dụng đầu tư phát triển tại Quỹ Hỗ trợ đầu tư (DAF) (2000-2006)
       Trong giai đoạn 2000-2005, không kể số thu hồi nợ vay đưa vào vay mới, quỹ hỗ trợ phát triển đã huy động được tổng số vốn gần 75.000 tỷ đồng, bằng 6,7% tổng vốn đầu tư trong nước của toàn xã hội, tương đương 5,6% tổng số vốn đầu tư toàn xã hội ở giai đoạn này. Tính chung số vốn giải ngân tăng trưởng bình quân 21,2%/năm, trong đó giải ngân từ nguồn thu hồi nợ vay chiếm trung bình 19%. Đặc biệt riên giai đoạn 2002-2004, số vốn được giải ngân hàng năm tăng bình quân 50%/năm, số huy động mới tăng bình quân 45%/năm.
       Quỹ hỗ trợ phát triển đã cho vay vốn trong nước để đầu tư trên 8000 dự án (trong đó có 90 dự án nhóm A), với tổng số vốn theo hợp đồng tín dụng đã ký đạt gần 83.000 tỷ đồng, các dự án nhóm A chiếm 30% tổng số dư nợ.
       Quỹ hỗ trợ phát triển cũng bảo lãnh tín dụng đầu tư gần 2300 dự án với tổng số vốn theo hợp đồng là 3250 tỷ đồng, thực tế đã cấp 430 tỷ.
       Nguồn vốn từ quỹ hỗ trợ phát triển đóng góp đáng kể trong tổng nguồn vốn xã hội huy động cho đầu tư phát triển, giai đoạn 2001-2005, tỷ trọng đóng góp của nguồn tín dụng đầu tư là tương đối ổn định. Vốn tín dụng đầu tư chiếm tỷ trọng đáng kể trong cơ cấu vốn của Nhà nước dành cho phát triển và trên mặt bằng tổng vốn đầy tư toàn xã hội giai đoạn này.
      

Cơ cấu cho vay theo ngành kinh tế quốc dân:
Đơn vị: tỷ đồng
STT
Ngành
Số vốn và tỷ trọng phân theo ngành kinh tế
2000
2001
2002
2003
2004
Số vốn
Tỷ trọng (%)
Số vốn
Tỷ trọng (%)
Số vốn
Tỷ trọng (%)
Số vốn
Tỷ trọng (%)
Số vốn
Tỷ trọng (%)
1
Công nghiệp xây dựng
1770
43
3546
45
4604
49
8442
62
7121
64
2
Nông lâm thủy hải sản
1154
28
1688
21
1023
11
1720
13
1558
14
3
Giao thông vận tải
948
23
2407
30
3380
36
2909
22
2114
19
4
Khác
275
6
348
4
369
4
440
3
334
3

Tổng cộng
4147
100
7989
100
9376
100
13511
100
11126
100

       Cơ cấu cho vay đầu tư của quỹ hỗ trợ phát triển thay đổi dần qua từng năm theo xu hướng tăng tỷ trọng vốn đầu tư cho các dự án thuộc ngành công nghiệp xây dựng, giao thông vận tải và giảm dần đối với các dự án thuộc ngành nông nghiệp, các ngành sản xuất vật chất khác góp phâng chuyển dịch cơ cấu kinh tế và thúc đẩy kinh tế bền vững.
      
Cơ cấu cho vay theo vùng kinh tế:
Đơn vị: tỷ đồng
STT
Vùng
Các chỉ tiêu theo vùng kinh tế
Số vốn vay theo hợp đồng tín dụng
Dư nợ
Số dự án
Số vốn vay
Tỷ trọng vốn vay (%)
Tổng số
Tỷ trọng (%)
1
Đông Bắc
781
12010
18.18
5945
15.74
2
Tây Bắc
99
1194
1.81
684
1.81
3
Đồng bằng sông Hồng
766
15636
23.67
9868
26.13
4
Bắc Trung Bộ
654
5885
8.91
3408
9.02
5
Duyên hải miền Trung
430
5726
5.67
2756
7.29
6
Tây Nguyên
207
3023
4.58
1559
4.13
7
Đông Nam Bộ
922
14666
22.2
8782
23.25
8
Đồng bằng sông Cửu Long
1029
7918
11.98
4694
12.43

Tổng cộng
4888
66058
100
37768
100

       Cơ cấu cho vay cho thấy sự phát triển tương đối nhanh của vùng kinh tế trọng điểm Đồng băng sông Hồng, Đông Nam Bộ, Đông Bắc, Đồng bằng sông Cửu Long. So với các vùng miền núi phía Bắc và Tây Nguyên. Cơ cấu cho vay đã cho thấy sự phù hợp với chiến lược phát triển của đất nước là phát triển các vùng kinh tế trọng điểm để kéo theo sự phát triển các vùng khác. Tuy nhiên tỷ trọng vốn vay với các vùng Tây Bắc và Tây Nguyên còn quá nhỏ, dư nợ của các dự án còn cao cho thấy công tác tín dụng đầu tư phát triển chưa thực sự chú trọng vào các vùng khó khăn.
 3. Hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của Ngân hàng phát triển Việt Nam (sau năm 2006 đến nay)
Năm 2006, Việt Nam chuẩn bị hoàn thiện những bước cuối cùng trong việc đàm phán gia nhập WTO, đánh dấu sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế đồng thời mở ra các cơ hội và thách thức lớn. Cùng với cơ hội lớn mà WTO mang lại là hàng loạt các khó khăn, thách thức đặt ra ở phía trước. Vì vậy, cần phải phát huy hơn nữa nội lực của nền kinh tế để chủ động hội nhập, đón đầu các cơ hội và vượt qua các thách thức.
Một trong các vấn đề quan trọng để phát huy tốt được nội lực là việc huy động tối đa các nguồn lực trong và ngoài nước cho ĐTPT, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực, chống thất thoát lãng phí vốn Nhà nước. Yêu cầu đặt ra là cần phải đổi mới hoạt động tín dụng ĐTPT Nhà nước (bao gồm cả cơ chế chính sách và tổ chức thực hiện) góp phần nâng cao trách nhiệm của các chủ thể tham gia tín dụng ĐTPT Nhà nước, nhằm sử dụng các nguồn vốn đầu tư tập trung, đúng quy hoạch, kế hoạch, có hiệu quả, tránh đầu tư dàn trải.
Xuất phát từ lý do trên , vào đúng ngày kỷ niệm 116 năm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, ngày 19/5/2006, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 108/2006/QĐ-TTg thành lập Ngân hàng Phát triển Việt Nam (VDB) trên cơ sở tổ chức lại hệ thống Quỹ Hỗ trợ phát triển.
Vốn TDĐTPT là một thành phần của đầu tư công. Trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội, đầu tư công có vị trí quan trọng, chiếm một tỷ trọng lớn. Giai đoạn 2001 - 2010, đầu tư công chiếm trung bình khoảng trên 45% tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội. Những năm gần đây, nguồn vốn đầu tư công đã được điều chỉnh giảm để thực hiện tái cơ cấu đầu tư công, song vẫn chiếm gần 40% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Điều này có nghĩa là gần một nửa cung vốn đầu tư phát triển của quốc gia là đầu tư công.
Là một thành phần của đầu tư công, vốn TDĐTPT cũng chiếm tỷ trọng tương đối lớn trong số đó. Giai đoạn 2001-2010, vốn TDĐTPT chiếm khoảng 22,6% tổng vốn đầu tư công và chiếm khoảng 4,2% GDP. Sang các năm 2010 – 2012, vốn TDĐTPT duy trì ở mức khoảng 6% GDP.
Cần phải hiểu rằng, dù duy trì ở mức khoảng 6% GDP, nhưng trong thực tế, nguồn vốn TDĐTPT đã liên tục tăng trưởng. Bởi, khi tỷ trọng nguồn vốn TDĐTPT liên tục được giữ ổn định trong GDP, cũng đồng nghĩa quy mô vốn TDĐTPT (về số tuyệt đối) đã tăng tương ứng cùng với tốc độ tăng quy mô GDP hàng năm.

-               Tính tới năm 2008, NHPT đang quản lý cho vay trên 3.970 dự án với số vốn theo hợp đồng tín dụng gần 128.780 tỷ đồng, dư nợ bình quân vốn tín dụng ĐTPT tăng trưởng gần 20%/năm; dư nợ tín dụng ĐTPT tại thời điểm 31/12/2008 đạt 61.760 tỷ đồng, tập trung chủ yếu vào lĩnh vực công nghiệp và xây dựng, trong đó dư nợ các dự án nhóm A chiếm khoảng 45% tổng dư nợ.
-               Tính tới năm 2010, tổng số vốn VDB đã giải ngân cho các dự án đầu tư là 83 nghìn tỷ đồng, dư nợ VND đến 31/12/2010 khoảng 90 nghìn tỷ đồng, tăng hơn hai lần so với thời điểm đi vào hoạt động (0/7/2006), đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 20%/năm và chiếm khoảng 3% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. VDB đang quản lý 2.445 dự án với tổng số vay theo hợp đồng tín dụng là 168.846 tỷ đồng, trong đó có 106 dự án nhóm A với số vốn vay là 73.583 tỷ đồng.
Riêng trong năm 2010, NHPT Việt Nam đã hoàn thành kế hoạch tín dụng đầu tư với số giải ngân trong năm 24.295 tỷ đồng, đạt 92% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao, thu nợ gốc 10.692 tỷ đồng đạt 78% kế hoạch được giao, thu nợ lãi 4.396 tỷ đồng, đạt 82% kế hoạch, dư nợ đến ngày 31/12/2010 là 86500 tỷ đồng, tăng trưởng cho vay tín dụng đầu tư là 19%
-               Thực hiện Nghị quyết 11 của Chính phủ, trong năm 2011, NHPT đã rà soát cắt giảm kế hoạch vốn tín dụng đầu tư ngay từ đầu năm (giảm 2.500 tỷ đồng), tập trung giải ngân cho 255 dự án vay vốn tín dụng đầu tư đẩy nhanh tiến độ, hoàn thành. Trong năm 2011, các dự án an sinh xã hội… Năm 2011, NHPT đã giải ngân cho các dự án TDĐT đạt 23.452 tỷ đồng (đạt 99,8% kế hoạch được Hội đồng quản lý phê duyệt là 23.500 tỷ đồng và khoảng 92% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao đã điều chỉnh. Ngoài ra, trong năm 2011, NHPT tiếp tục quản lý và cấp hỗ trợ sau đầu tư cho gần 440 dự án với số tiền hỗ trợ theo hợp đồng hơn 2.400 tỷ, trong đó số cấp năm 2011 gần 100 tỷ đồng.
-               Tính đến hết năm 2012, không kể số thu hồi nợ vay, VDB đã huy động tổng số vốn hơn 250 nghìn tỷ đồng từ nguồn vốn trong và ngoài nước; cấp vốn tín dụng đầu tư cho nền kinh tế gần 150 nghìn tỷ đồng, góp phần tích cực thực hiện các chương trình, dự án ưu tiên và các dự án khai thác tiềm năng các vùng khó khăn, đặc biệt khó khăn…
Tín dụng đầu tư của VDB đã tập trung vào lĩnh vực công nghiệp, xây dựng. Trong đó có các dự án, công trình Thủy điện Sơn La, nhà máy Lọc dầu Dung Quất, nhà máy Đạm Cà Mau, các dự án sản xuất phân bón DAP ở Hải Phòng, ở Lào Cai, các dự án sản xuất thép, cơ khí trọng điểm, tàu biển, đường ô-tô cao tốc Hà Nội - Hải Phòng ...
Bảng: Tài sản trong hoạt động nghiệp vụ NHPT       ĐVT: triệu đồng
Khoản mục
Năm 2009
Năm 2010
Năm 2011
Cho vay trung, dài hạn tín dụng đầu tư
72.686.331
86.502.574
97.851.622
Trong đó



-               Quá hạn
2.311.179
3.285.655
3.749.337
-               Khoanh nợ
415.166
175.228
3.008.769

Bảng : Vốn ủy thác đầu tư NHPT                ĐVT: triệu đồng
Khoản mục
2009
2010
2011
Vốn ủy thác đầu tư
58.560.667
63.726.896
107.387.599
Nhận vốn ODA cho vay lại
59.556.960
64.101.181
107.061.466
Chênh lệch tỷ giá vốn ODA
917.009
1.554.817
1.527.298
Vốn ủy thác HTSĐT
54.316
15.488
166.517
+ Vốn được ủy thác
654.323
591.153
742.821
+ Cấp HTSĐT
600.007
(575.665)
(576.304)
Vốn ủy thác cấp phát
214.629
(44.424)
(460.135)
+Vốn được ủy thác cấp phát
22.489.743
23.901.154
22.900.414
+Cấp phát ủy thác
22.275.114
(23.945.578)
(23.360.549)
Vốn ủy thác cho vay
2.182.237
(1.900.166)
(907.547)
+Vốn được ủy thác
21.266.432
25.055.532
32.769.928
+Cho vay ủy thác
23.548.699
(26.955.698)
(33.677.475)

4. Những thành tựu đạt được của tín dụng ĐTPT Nhà nước thời gian qua
-               Tín dụng đầu tư của Nhà nước góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và xuất khẩu của đất nước. Thông qua việc đẩy mạnh cho vay đầu tư, vốn TDĐTPT đã góp phần tăng cường cơ sở vật chất, gia tăng giá trị tài sản cố định cho nền kinh tế. Tổng nguồn vốn TDĐTPT những năm qua đóng góp khoảng 6% tổng giá trị tài sản tăng thêm hàng năm của cả nước. Các chương trình/dự án trọng điểm nổi bật là: Thủy điện Sơn La và các dự án về ngành điện (bao gồm cả sản xuất và phân phối điện), Lọc dầu Dung Quất, các nhà máy xi măng, luyện thép, cơ khí trọng điểm, vệ tinh Vinasat, phân bón DAP Hải Phòng, Đạm Ninh Bình, Đạm Hà Bắc, Apatit Lào Cai, Đóng tàu biển... đã góp phần tăng cường cơ sở vật chất kinh tế cho nền kinh tế. Với trên 150 dự án nguồn điện, lưới điện (hệ thống đường dây, trạm biến áp), góp phần đưa công suất phát điện tăng thêm 6.000 MW; xây dựng mới hơn 1.000 km đường dây 500 KV, gần 3.000 km đường dây 220 KV và 110 KV; hàng trăm trạm biến áp công suất các loại được đưa vào sử dụng đồng bộ với các dự án nguồn và lưới điện. Đầu tư sản xuất 32 dự án đầu tư nhà máy xi măng (khoảng 52 triệu tấn/năm), trên 120 dự án đầu tư cơ sở đóng mới, sửa chữa tàu biển, mua mới tàu biển, hỗ trợ đầu tư cải tạo, nâng cấp, mở rộng các cơ sở đóng tàu và đầu tư vào các dự án sản xuất sản phẩm mới đáp ứng nhu cầu của ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam, các dự án đầu tư đóng mới toa xe đường sắt, 16 dự án lớn ngành hóa chất, 80 dự án công nghiệp chế biến...Đầu tư từ vốn tín dụng Nhà nước trong giai đoạn này luôn đồng điệu với chuyển dịch cơ cấu kinh tế đã thể hiện tính dẫn dắt và tác động tích cực của nguồn vốn tín dụng Nhà nước với mục tiêu chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
http://kinhtevadubao.com.vn/upload/editor/images/04-2013/ThambeTongAsphal.jpg
Vốn TDĐTPT đã góp phần tăng cường cơ sở vật chất, gia tăng giá trị tài sản cố định cho nền kinh tế
-                        Vốn TDĐTPT hỗ trợ phát triển các ngành, lĩnh vực then chốt, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Từ năm 2000 đến nay, vốn TDĐTPT đã tập trung chủ yếu vào các lĩnh vực công nghiệp, xây dựng với tỷ lệ giải ngân vào các lĩnh vực này bình quân 80%, cao hơn mức bình quân chung của toàn xã hội. Cụ thể, vốn TDĐTPT giai đoạn 2000 – 2013 đã tập trung cho vay hơn 60.000 tỷ đồng vào ngành điện, gần 20.000 tỷ đồng vào ngành xi măng, hơn 15.000 tỷ đồng cho ngành hóa chất… góp phần hình thành, phát triển các ngành công nghiệp cơ bản, then chốt có vai trò lan tỏa cao, hỗ trợ sự phát triển của các ngành công nghiệp khác trong nền kinh tế.
-                        Vốn TDĐTPT đã được sử dụng để cho vay đầu tư vào các địa bàn có điều kiện khó khăn, góp phần xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, phát triển nông nghiệp, nông thôn. Thông qua các dự án, chương trình kinh tế trọng điểm, hàng trăm ngàn ki-lô-mét kênh mương, đường giao thông nông thôn đã được xây dựng, bê tông hóa… Các chương trình, dự án này đã góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp, góp phần làm thay đổi diện mạo nông thôn, đặc biệt là các tỉnh miền núi, các địa bàn đặc biệt khó khăn, như: Bắc Kạn, Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu, Đắc Lăk, Bình Phước, Sóc Trăng…
-                        Với những lĩnh vực hiệu quả đầu tư thấp, thời gian thu hồi vốn dài, khó thu hút vốn đầu tư ngoài xã hội, như: các công trình cấp nước sạch, xử lý nước thải, rác thải, xây dựng nhà ở cho người thu nhập thấp, ký túc xá sinh viên… thì vốn TDĐTPT đã được sử dụng, góp phần bảo đảm an sinh xã hội. Nguồn vốn TDĐTPT còn có vai trò là nguồn vốn “mồi”, huy động nguồn lực khác tham gia vào xã hội hóa y tế, giáo dục, xử lý rác thải, nước thải…
5.  Những hạn chế còn tồn tại
Bên cạnh những hiệu quả to lớn mà vốn TDĐTPT đem lại, nó cũng còn bộc lộ một số tồn tại sau:
- Quy mô vốn TDĐTPT còn nhỏ bé, thiếu tập trung. Mặc dù có mức tăng trưởng hàng năm khoảng 17%-18%, song TDĐTPT mới có quy mô bằng khoảng 6% tổng vốn đầu tư toàn xã hội cùng thời kỳ. Tổng vốn TDĐTPT mới đáp ứng được khoảng 37% nhu cầu vay vốn trong tổng mức đầu tư tài sản cố định của các dự án có vay vốn TDĐTPT. Hơn nữa, đối tượng cho vay TDĐTPT còn dàn trải, chưa thật sự tập trung cho vay vào các dự án trọng điểm, các ngành then chốt, các vùng khó khăn. Vốn tín đụng đầu tư phát triển còn bị phân tán ở nhiều lĩnh vực, ngành nghề khác nhau.
- Rủi ro hoạt động nghiệp vụ cao, tiềm lực tài chính và khả năng bù đắp rủi ro của tổ chức cho vay TDĐTPT thấp. Cụ thể là trường hợp Ngân hàng Phát triển Việt Nam (VDB), đơn vị có chức năng cho vay TDĐTPT. Theo đánh giá của Thanh tra Nhà nước, nếu loại trừ các khoản nợ xấu nhận bàn giao từ các tổ chức tiền thân của VDB (Tổng cục Đầu tư phát triển, Quỹ Hỗ trợ phát triển) chưa được xử lý, nợ xấu đối với các chương trình của Chính phủ chỉ định cho vay (VDB không phải thực hiện thẩm định)… thì nợ xấu tại thời điểm 31/12/2010 là 20.663 tỷ đồng, chiếm 11,46% trên tổng dư .Đây là con số không hề nhỏ.

6. Một số giải pháp
Thứ nhất, có thể tăng quy mô và tổng dư nợ cho vay TDĐTPT vào nền kinh tế, nhưng phải đi liền với việc giảm dần quy mô đầu tư công từ nguồn vốn ngân sách nhà nước và trái phiếu chính phủ. Lựa chọn này đảm bảo nguồn cung vốn đầu tư cho nền kinh tế không bị giảm sút đột ngột, đồng thời sẽ khai thác được lợi thế của hoạt động TDĐTPT. Bởi, bản chất là hoạt động đầu tư từ ngân sách nhưng lại mang tính vay trả, có tính truy hoàn, vừa giúp Chính phủ tiếp tục sử dụng TDĐTPT như một công cụ đầu tư hữu hiệu thực hiện các chính sách phát triển kinh tế - xã hội, vừa đảm bảo nâng cao trách nhiệm sử dụng vốn đầu tư nhà nước. Điều này hoàn toàn khác so với hình thức đầu tư bằng ngân sách nhà nước, trái phiếu chính phủ vốn mang tính cấp phát, không hoàn trả.
Thứ hai, quan trọng hơn, cần phân định rõ: chỉ có các dự án hoàn toàn không có khả năng thu hồi vốn thì sử dụng vốn ngân sách nhà nước hoặc vốn trái phiếu chính phủ; còn các dự án có khả năng thu hồi vốn cần dứt khoát chuyển sang sử dụng vốn TDĐTPT. Điều này để thực hiện nghiêm định hướng tái cơ cấu đầu tư công, sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư khan hiếm từ ngân sách nhà nước và có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước.
Thứ ba, cần rà soát lại và xây dựng mới danh mục các chương trình kinh tế, dự án, ngành hàng thuộc đối tượng cho vay vốn TDĐTPT nhằm đảm bảo đúng định hướng đối tượng phục vụ đã đề ra trong Chiến lược phát triển VDB đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030. Theo đó, TDĐTPT tập trung vào các lĩnh vực cơ sở vật chất hạ tầng kinh tế - xã hội, công nghiệp phụ trợ, nông nghiệp nông thôn, xã hội hóa trong lĩnh vực giáo dục y tế, bảo vệ môi trường và công nghệ xanh, năng lượng sạch và năng lượng tái tạo. Danh mục đối tượng cho vay vốn TDĐTPT cần tập trung có trọng điểm vào các chương trình, dự án kinh tế lớn mang tính then chốt, có tác dụng tạo đà, hỗ trợ cho các ngành, lĩnh vực khác phát triển. Đặc biệt, danh mục đối tượng cho vay cần “phủ sóng” được các lĩnh vực, địa bàn đầu tư khó thu hút vốn đầu tư tư nhân trong và ngoài nước, khó thu hồi vốn đầu tư do hiệu quả đầu tư thấp, thời gian thu hồi vốn dài… nhằm đảm bảo an sinh xã hội. Danh mục cho vay cần hướng đến các chương trình kinh tế lớn, dự án kinh tế trọng điểm không vì mục tiêu lợi nhuận, không vì mục đích kinh tế đơn thuần, có tác động liên ngành, liên tỉnh hoặc thậm chí liên vùng.
Thứ tư, cần sớm xây dựng một văn bản pháp lý ở tầm pháp lệnh, luật về hoạt động TDĐTPT nhằm pháp lý hóa các quy định trong hoạt động này, đảm bảo phối hợp tốt với Luật Đầu tư công và tránh những xung đột pháp lý (với Luật Ngân sách nhà nước, Luật Đầu tư công, Luật Các tổ chức tín dụng...), cũng như tránh những khe hở” của pháp luật về sử dụng vốn ngân sách nhà nước. Điều này sẽ giúp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn TDĐTPT, nhất là trong bối cảnh Việt Nam đang thực hiện tái cơ cấu đầu tư công.

Chương 2: Thực trạng tín dụng xuất khẩu Nhà nước thời gian qua
1.     Thực trạng tín dụng xuất khẩu Nhà nước trong giai đoạn 2006 -2011
Trong những năm qua, NHPT luôn nỗ lực hoàn thành kế hoạch TDXK hàng năm do Thủ tướng Chính phủ giao cụ thể: Năm 2007, vượt kế hoạch 12%; Năm 2008, mặc dù gặp nhiều khó khăn do nền kinh tế khủng hoảng nhưng NHPT vẫn hoàn thành đạt tỷ lệ cao với mức 136%; Năm 2009 lại tiếp tục một năm phát triển mạnh mẽ trong hoạt động tín dụng xuất khẩu của VDB khi vượt kế hoạch chính phủ giao 60%; các năm tiếp theo quay trở về mức bão hòa với tỷ lệ hoàn thành đạt được lần lượt là 108% và 103,8%.

Bảng: Dư nợ bình quân TDXK                                       ĐVT: tỷ đồng
               Chỉ tiêu

Dư nợ bình quân
Năm 2006
Năm 2007
Năm 2008
Năm 2009
Năm 2010
Năm 2011
Thủ tướng Chính phủ giao
3.500
2.500
7.525
10.000
15.000
16.181
Thực hiện
3.000
2.800
10.235
16.000
16.200
16.796
Tỷ lệ hoàn thành kế hoạch
86.7%
112%
136%
160%
108%
103.8%
Tỷ lệ tăng trưởng dư nợ
-
6.67%
265%
56%
1,25%
3.68%
(Nguồn số liệu: Ngân hàng Phát triển Việt Nam)

Mang nhiệm vụ là kênh duy nhất hỗ trợ tín dụng xuất khẩu của Nhà nước, nhưng doanh số cho vay của NHPT đối với hoạt động xuất khẩu vẫn còn chiếm một tỷ trọng khiêm tốn trong tổng kim ngạch xuất khẩu (năm 2011, tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước khoảng 96 tỷ USD, doanh số cho vay của NHPTVN khoảng 968 triệu USD, chiếm 1% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước). Bởi đây là hình thức hỗ trợ của Nhà nước nên đối tượng đủ điều kiện để tiếp xúc với nguồn vốn vẫn còn nhiều hạn chế. Tuy vậy, cho vay TDXK tập trung vào những mặt hàng lợi thế, cần khuyến khích nên nguồn vốn này đã đóng góp đáng kể về mặt kinh tế – xã hội.

Bảng : Kết quả cho vay TDXK từ năm 2006 đến năm 2011
(ĐVT: tỷ đồng)
TT
Chỉ tiêu
Năm 2006
Năm 2007
Năm 2008
Năm 2009
Năm 2010
Năm 2011
1
Doanh số cho vay
8.200
9.544
27.275
28.142
20.153
15.453
2
Thu nợ
8.800
6.987
19.496
27.011
18.122
15.724
3
Thu lãi
179
183
764
787
1.153
922
4
Tỷ lệ thu lãi
56,32%
67.56%
78,45%
48,38%
85,21%
78.92%
5
Dư nợ đến 31/12
3.000
5.557
13.336
14.467
16.498
16.227
(Nguồn số liệu: Ban TDXK – NHPT)


- Hoạt động TDXK tại NHPTVN năm 2006 gặp khá nhiều khó khăn do một số nguyên nhân chủ yếu như: Mặt hàng gạo là mặt hàng chủ đạo cho vay TDXK không nằm trong danh mục các mặt hàng thuộc đối tượng vay vốn từ tháng 03/2006 (Bộ Tài chính cho rằng, xuất khẩu gạo của Việt Nam thời gian qua tương đối tốt nên đưa ra khỏi danh mục).
Bên cạnh đó, trong bối cảnh Việt Nam gia nhập WTO, lại là năm đầu tiên thực hiện chuyển đổi mô hình từ Quỹ Hỗ trợ phát triển sang NHPTVN phần nào đã gây tâm lý e dè khi cho vay tại các Chi nhánh. Bên cạnh đó, tính cạnh tranh giữa các tổ chức tín dụng ngày càng cao hơn khiến thị phần cho vay bị hạn chế, khách hàng truyền thống, có uy tín và doanh số lớn có chiều hướng chuyển sang quan hệ với NHTM.
- Bước sang năm 2007, doanh số cho vay xuất khẩu đã được đẩy mạnh đáng kể, tăng 16% so với năm 2006. Góp phần vào sự tăng trưởng đó có ảnh hưởng trực tiếp của cơ chế TDXK mới, các quy định cho vay TDXK của Nhà nước khá thông thoáng phù hợp với các quy định hiện hành của pháp luật, thêm nữa, NHPTVN đã thực hiện các hoạt động quảng bá hình ảnh, tiếp thị chính sách, phân cấp mạnh hơn cho các Chi nhánh, đẩy mạnh việc cho vay theo hạn mức.
- Năm 2008 là năm nghiệp vụ TDXK phát triển nhanh, mạnh, điều này được thể hiện rõ qua số liệu tình hình thực hiện nghiệp vụ năm 2008 so với năm 2007: doanh số cho vay tăng mạnh gần 3 lần, dư nợ tăng gấp 2,4 lần, thu gốc tăng gấp gần 3 lần...; dư nợ bình quân TDXK năm 2008 đạt 10.235 tỷ đồng, tăng 3,5 lần so với năm 2007, gấp 1,28 lần kế hoạch dư nợ bình quân do Thủ tướng Chính phủ giao cuối năm 2008 (7.000-8.000 tỷ đồng) và gấp 2 lần kế hoạch do Tổng Giám đốc NHPT giao đầu năm (5.100 tỷ đồng).
- Năm 2009, bất chấp những khó khăn do cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu cuối năm 2008 gây ra, doanh số cho vay TDXK đạt 28.141 tỷ đồng, tăng 3% so với năm 2008, xuất sắc hoàn thành vượt mức kế hoạch dư nợ bình quân do Thủ tướng Chính phủ giao. Tuy nhiên, trong năm này do khó khăn kinh tế, đã làm gia tăng tỷ lệ nợ xấu, nợ quá hạn được thể hiện rõ ở tỷ lệ thu lãi chỉ đạt ở mức 48,38%.
- Trong năm 2010 và năm 2011, NHPT thực hiện hạn chế tín dụng nên doanh số cho vay đạt thấp. Doanh số cho vay năm 2010 là 20.163 tỷ đồng, giảm 28% so với doanh số cho vay năm 2009 và tiếp tục giảm trong năm 2011 khi doanh số cho vay chỉ còn ở mức 15.453 tỷ đồng.
* Tình hình nợ quá hạn TDXK:
Bên cạnh những kết quả đã trình bày ở trên, cho vay TDXK trong thời gian qua cũng còn có nhiều dự án có nợ quá hạn và lãi đến hạn chưa trả (lãi treo) qua những năm gần đây.
Bảng : Nợ quá hạn trong TDXK                                               Đơn vị: tỷ đồng
TT
Chỉ tiêu
2006
2007
2008
2009
2010
2011
1
Dư nợ gốc(cuối kỳ)
3.000
5.557
13.336
14.446
16.498
16.227
2
Trong đó Nợ gốc quá hạn
105
51
71
286
2.760
2.712
3
Tỷ lệ nợ gốc quá hạn(%)
3,5
0,9
0,53
1,97
16,7
16,7
4
Lãi treo
6,8
6
23
157
430
807
Nguồn số liệu: Ban TDXK - NHPTVN

Tỷ lệ nợ quá hạn năm 2006 là 3,5% nhưng giảm đáng kể ở năm 2007, 2008. Điều này phản ánh ý thức trả nợ của các doanh nghiệp vay vốn, chất lượng thẩm định các khoản vay của NHPT đạt khá, sự phối hợp tốt với các NHTM trong kiểm soát nguồn thu từ hợp đồng xuất khẩu. Tuy nhiên, sang năm 2010 và năm 2011, tỷ lệ nợ quá hạn lại nhẩy vọt lên 16,7%. Nguyên nhân do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế, khách hàng không xuất khẩu được hàng hoá, nhà nhập khẩu chậm thanh toán, NHTM thắt chặt tín dụng, do bão lũ, phía CuBa chậm trả.
Năm 2010 và năm 2011 nợ quá hạn tập trung chủ yếu ở nhóm hàng nông lâm thuỷ sản (53%): cà phê, chè, hạt điều đã qua chế biến, rau quả và thủy sản, đặc biệt, mặt hàng thủy sản có tỷ lệ nợ quá hạn cao nhất trong nhóm hàng nông lâm thủy sản. Nhóm hàng có tỷ lệ cao quá hạn tiếp theo là nhóm hàng công nghiệp có số nợ quá hạn là 97 tỷ đồng, chiếm 34% tổng số nợ quá hạn. Toàn bộ số nợ quá hạn của nhóm hàng công nghiệp phát sinh tại khoản vay để xuất khẩu bóng đèn sang thị trường Cu ba của Công ty cổ phần bóng đèn điện quang. Khoản vay được thực hiện theo chương trình đặc biệt của Chính phủ, đã phát sinh nợ quá hạn từ đầu năm 2009, đến nay, khách hàng chưa trả được nợ do nhà nhập khẩu Cu ba không thanh toán tiền theo cam kết.
2.     Các thành tựu đạt được từ hoạt động tín dụng xuất khẩu Nhà nước
Thị trường xuất khẩu được tài trợ bằng vốn tín dụng xuất khẩu của Nhà nước qua NHPT được mở rộng từ gần 50 nước ra hơn 120 nước. Với doanh số cho vay khoảng năm tỷ USD trong các năm qua, hoạt động tín dụng xuất khẩu đã giúp các doanh nghiệp giảm chi phí đầu vào, tăng khả năng cạnh tranh, mở rộng và đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng hóa Việt Nam trên thị trường quốc tế, giữ vững thị trường truyền thống, khai thác các thị trường mới.
Kể từ khi Việt Nam tiến hành công cuộc đổi mới, trong giai đoạn 20 năm qua, tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam đã đạt được những bước tiến đáng kể cả về kim ngạch và khối lượng hàng hóa cũng như cơ cấu hàng xuất khẩu. Nếu như trong những năm đầu của thập niên 1990, tỷ lệ kim ngạch xuất khẩu trên GDP mới chỉ đạt khoảng 30% thì đến năm 2008 đã đạt 70%. Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu trong giai đoạn này đạt khoảng 19%/năm. Thị trường xuất khẩu được mở rộng. Cơ cấu hàng xuất khẩu cũng chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng hàm lượng giá trị công nghiệp và đa dạng hóa sản phẩm trong từng ngành hàng xuất khẩu chủ lực.
Trong năm 2010, xuất khẩu của Việt Nam đã tăng trưởng ngoạn mục. Theo thống kê, kim ngạch xuất khẩu năm 2010 của Việt Nam ước tính đạt 71,6 tỷ USD, tăng 25,5% so với năm 2009. So với mức 6% chỉ tiêu đề ra ban đầu, xuất khẩu đã gấp 4,2 lần và nếu so với mức tăng GDP, gấp 3,8 lần. Theo đó, xuất khẩu bình quân đầu người tăng, tỷ lệ kim ngạch xuất khẩu so với GDP cũng đạt cao, tương đương như hồi năm 2008. Xuất khẩu năm 2010 của Việt Nam đã có bước lội ngược dòng, khi mà chỉ mới năm trước, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu là âm tới 9,7%. Cũng nhờ có sự tăng trưởng xuất khẩu này, tỷ lệ nhập siêu của Việt Nam năm 2010 đã được kéo xuống.
           Còn trong năm 2012, nhờ nguồn tín dụng xuất khẩu của Nhà nước và một số công cụ khác, lần đầu tiên sau 20 năm, chúng ta có xuất siêu của năm là 284 triệu USD. Như vậy, vượt lên sự cạnh tranh khốc liệt của các nước trong khu vực, sản phẩm hàng hóa của Việt Nam vẫn giành được chỗ đứng đáng nể trên thị trường quốc tế… Trong năm 2012, chỉ có ba tháng nhập siêu ở mức thấp, các tháng còn lại đều xuất siêu, đặc biệt là các tháng cuối năm. Nếu như quý I/2009, Việt Nam cũng xuất siêu gần 1,4 tỷ USD nhưng đó là xuất siêu vàng thì trong cả 3 quý của năm 2012, chúng ta đều có xuất siêu từ hàng hóa; trong đó, đóng góp lớn nhất vào kim ngạch chung là nhờ xuất khẩu được gần 13 tỷ USD sản phẩm điện thoại - linh kiện các loại (tăng gần gấp đôi) và 8 tỷ USD sản phẩm máy tính - linh kiện điện tử (tăng gần 70%).
           Với nhóm hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam là nông sản, mặc dù yếu tố giá xuất khẩu bị sụt giảm; trong đó gạo giảm 11%, cao su giảm 29%... nhưng sự tăng về lượng, nhất là gạo lần đầu tiên lập kỷ lục xuất 8 triệu tấn đã góp phần bù đắp rất lớn vào kim ngạch xuất khẩu. Đây là tín hiệu tốt, đóng góp hiệu quả cho tăng trưởng GDP, ổn định tỷ giá, đồng thời tăng thanh khoản đáng kể về ngoại tệ cho hệ thống ngân hàng.
3. Những tồn tại
* Về cơ chế chính sách tín dụng xuất khẩu
- Đối tượng được ưu đãi hạn chế: Thị trường xuất khẩu có rất nhiều loại hàng khác nhau và rất đa dạng trong khi đó chỉ có những nhóm mặt hàng nào thuộc đối tượng hưởng TDXK thì mới tiếp cận vay vốn TDXK tại NHPT, do đó khả năng đáp ứng hết tất cả các nhu cầu đa dạng của khách hàng là không thể.
- Hình thức TDXK còn đơn điệu: Trong thực tế các hình thức TDXK được thực hiện qua NHPT thì mới chỉ có nghiệp vụ cho vay nhà xuất khẩu được thực hiện trong thực tế. Các hình thức khác như: Cho vay nhà nhập khẩu, Bảo lãnh TDXK, Bảo lãnh dự thầu và bảo lãnh thực hiện hợp đồng tuy đã có nhưng vẫn chưa được thực hiện trong thực tế.
- Thủ tục vay vốn tại NHPT phức tạp gây khó khăn cho doanh nghiệp.
* Về công tác quản lý nợ, xử lý rủi ro
- Chất lượng thẩm định còn thấp: Khi thẩm định cho vay căn cứ vào báo cáo tài chính để đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp trong một khoảng thời gian nhất định (vào cuối niên độ kế toán) là chưa đủ, và chính xác, chỉ nắm được những thông tin về một số chỉ tiêu không có sự biến động nhiều, như: chỉ tiêu doanh thu, nộp ngân sách, tài sản cố định, lợi nhuận ... còn các chỉ tiêu tài chính khác như: luân chuyển vốn, tiền mặt, công nợ phải thu, phải trả, hàng tồn kho, nợ ngắn hạn ... không thể cập nhật kịp thời, chính xác trong từng thời điểm.
- Công tác kiểm tra giám sát tình hình sử sụng vốn vay chưa chặt chẽ:
Việc theo dõi giám sát tiền vay, đối chiếu số liệu, hồ sơ, căn cứ chứng từ giải ngân chưa chặt chẽ, giám sát tình hình sử dụng vốn vay chưa được tiến hành thường xuyên và đầy đủ.
- Công tác kiểm soát nội bộ chưa hiệu quả: Cơ chế kiểm soát của NHPT hiện nay mới chỉ chú trọng đến công tác kiểm tra kiểm soát xử lý, bảo vệ vốn chứ chưa chú ý đến công tác kiểm soát tổng quát, công tác kiểm tra nội bộ chưa làm tốt chức năng ngăn chặn và giám sát. Chất lượng tự kiểm tra, kiểm soát chưa cao dẫn đến còn nhiều tồn tại chưa được phát hiện chấn chỉnh kịp thời. Tổ chức bộ máy làm công tác kiểm tra trong hệ thống vẫn còn mỏng, chưa có tính chuyên nghiệp, chưa được đào tạo chuyên sâu về lĩnh vực kiểm tra, kiểm soát nội bộ.
- Hệ thống chấm điểm xếp hạng khách hàng xây dựng chưa hoàn chỉnh: Hệ thống chấm điểm xếp hạng nội bộ doanh nghiệp vay vốn TDXK tại hệ thống NHPT Việt Nam xây dựng chậm và chưa hoàn chỉnh dẫn đến chưa có cơ sở dữ liệu đồng bộ, thống nhất về khách hàng vay vốn TDXK phục vụ cho công tác thẩm định, cho vay, đảm bảo an toàn tín dụng và áp dụng chính sách tín dụng phù hợp với từng loại khách hàng.
* Về chất lượng phục vụ và sự chuyên nghiệp của NHPT
- Về lực lượng cán bộ, nhân viên ngân hàng, công tác đào tào cán bộ:
Nguồn nhân lực vẫn còn mỏng và trình độ chuyên môn chưa đáp ứng được nhu cầu của công việc. Cán bộ tín dụng chỉ tự nghiên cứu quy trình, nghiệp vụ để thực hiện mà không có các chương trình đào tạo cụ thể. Điều này gây khó khăn cho cán bộ trong việc áp dụng các quy định vào thực tiễn, đây cũng gây ra một áp lực về tâm lý cho cán bộ khi cho vay.
- Chính sách khách hàng của NHPT ban hành chậm và các Chi nhánh chưa quan tâm đúng mức đến vấn đề này.
           4. Các biện pháp
          a,     Hoàn chỉnh các quy định, nghiệp vụ phù hợp với Nghị định và pháp luật hiện hành gồm:
- Bảo đảm tiền vay: giá trị tài sản bảo đảm tiền vay theo hướng linh hoạt, áp dụng các biện pháp cụ thể cần gắn chặt với việc chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng theo tiêu chuẩn quốc tế và độ an toàn trong thanh toán của HĐXK. Ví dụ: Nếu hình thức thanh toán an toàn và xếp hạng tín dụng của đơn vị tốt, có thể xem xét hình thức tín chấp cho đơn vị vay vốn. Đa dạng hoá các hình thức cầm cố, thế chấp.
- Giảm các quy định khi cho vay theo hạn mức tín dụng: hình thức này đã được áp dụng tại NHPT trong thời gian qua. Việc cho vay theo hạn mức tín dụng cần có những quy định chặt chẽ để xác định được đúng nhu cầu vay vốn phục vụ cho xuất khẩu. Việc quy định điều kiện để được vay theo hạn mức là: đơn vị vay vốn có hoạt động sản xuất kinh doanh có lãi liên tục trong 2 năm gần nhất, có hoạt động xuất khẩu thường xuyên trong năm là cần thiết.
Tuy nhiên, việc quy định đơn vị vay vốn phải có uy tín trong quan hệ tín dụng với NHPT có thể là quá khắt khe vì như vậy sẽ khiến các doanh nghiệp chưa bao giờ vay vốn tại NHPT không thể vay vốn TDXK theo hình thức này. Nên chăng, khi xem xét điều kiện để đơn vị vay vốn được vay theo hạn mức, NHPT chỉ cần quy định là đơn vị vay vốn có uy tín trong quan hệ tín dụng với các ngân hàng là đủ.
- Giải ngân: điều chỉnh các quy định về giải ngân theo hướng linh hoạt hơn, tạo điều kiện thụân lợi cho đơn vị vay vốn trong quá trình sản xuất, kinh doanh hàng xuất khẩu.
            b,    Công tác kiểm tra, giám sát cần thực hiện theo một quy chuẩn từ trung ương tới các Chi nhánh: Chi nhánh cần kiểm tra, theo dõi sát sao tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh và các nguồn thu của đơn vị để đảm bảo thu hồi nợ đầy đủ, kịp thời. Tại Hội sở chính, cần kết hợp với việc kiểm tra thực tế công tác cho vay tại Chi nhánh, việc theo dõi thông tin về tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của từng đơn vị vay vốn để có thể kịp thời đưa ra cảnh báo cho các Chi nhánh NHPT về an toàn tín dụng và chấn chỉnh kịp thời những sai sót trong thực hiện nghiệp vụ của các Chi nhánh. Việc kiểm tra cần được tăng cường hơn để đảm bảo thu hồi nợ vay khi xu hướng đối tượng cho vay thu hẹp và lãi suất cho vay tiệm cận với lãi suất thị trường.
- Phân loại nợ: nghiên cứu điều chỉnh công tác phân loại nợ theo chuẩn mực của thế giới trên cơ sở phân loại theo khả năng thu hồi nợ, mức độ rủi ro của khoản vay thay vì chỉ phân loại nợ dựa trên tuổi nợ (thời gian của nợ quá hạn) từ đó đánh giá chuẩn xác về các khoản nợ và trích lập dự phòng rủi ro tương ứng, đưa ra được những biện pháp xử lý nợ kịp thời, tránh để nợ tồn đọng, dây dưa mà không thu hồi được.
          c,       Hạn chế rủi ro trong hoạt động cấp tín dụng xuất khẩu tại Ngân hàng Phát triển Việt Nam, từng bước chuẩn hoá công tác TDXK cho NHPT.
-         Thiết lập hệ thống quản trị thông tin tín dụng
Thông tin tín dụng đầy đủ, kịp thời và chính xác là yêu cầu cần thiết và quan trọng đối với hoạt động ngân hàng, đặc biệt là đối với hoạt động TDXK ngắn hạn.
-         Thiết lập hệ thống quản lý nợ có vấn đề
Nợ có vấn đề là các khoản tín dụng không thu hồi được hoặc có dấu hiệu không thu hồi được theo đúng cam kết trong hợp đồng tín dụng. Nợ có vấn đề gồm những khoản vay trong hạn, nợ gia hạn nhưng có những dấu hiệu không an toàn có thể dẫn đến rủi ro; nợ thanh toán không đúng kỳ hạn, đã quá hạn (nợ quá hạn thông thường, nợ khó đòi, nợ chờ xử lý, nợ khoanh, nợ tồn đọng).
Quản lý nợ có vấn đề là quá trình phòng ngừa, kiểm tra, phát hiện, xử lý, thu hồi nợ nhằm giảm thiểu mức độ rủi ro có thể xảy ra, giúp nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng.
Phân loại nợ là phương pháp quan trọng phải thực hiện để quản lý nợ có vấn đề. Công tác phân loại nợ đều đặn và thường xuyên, các tiêu chí phân loại nợ phải rõ ràng. Trước mắt thực hiện theo quy định của Ngân hàng Nhà nước về phân loại nợ vay. Phân loại dư nợ đúng, hệ thống quản lý nợ có vấn đề tốt sẽ tạo điều kiện để NHPT cơ cấu lại nợ, tạo sự minh bạch tài chính và nâng cao uy tín.





Comments

Popular posts from this blog

Gà rim mật ong

Phương pháp tính chỉ số chứng khoán và một số chỉ số chứng khoán tiêu biểu

Phân tích đầu tư chứng khoán: Công ty cổ phần Vĩnh Hoàn VHC