Thực trạng tín dụng nông nghiệp nông thôn Việt Nam qua các giai đoạn
MỤC LỤC
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1 Tài chính chính thức hay phi
chính thức
Ở các nước đang phát triển, hệ thống tài chính có dạng song hành, tức là
cùng tồn tại khu vực tài chính chính thức và khu vực tài chính phi chính thức.
Khu vực tài chính phi chính thức ước tính chiếm từ 30% đến 80% nguồn cung tín
dụng nông thôn, trong khi chưa đến 5% nông dân ở châu Phi, 15% ở châu Mỹ La
Tinh, và 25% ở châu Á tiếp cận được với tín dụng chính thức.[1]
Nếu khu vực tài chính chính thức như các ngân hàng thương mại, các ngân
hàng phát triển nông thôn hoạt động mạnh sẽ giúp tín dụng nông thôn đạt hiệu
quả. Tuy nhiên, ở các nước đang phát triển, khu vực chính thức thường thường
không cung cấp dịch vụ tài chính cho nông thôn hiệu quả, nhất là cho người
nghèo. Khu vực tài chính chính thức thường cho rằng, cho người nghèo vay có rủi
ro cao (tỉ lệ vỡ nợ cao), tốn kém (chi phí giao dịch cao). Để khắc phục những nhược
điểm này, họ áp dụng những thủ tục rắc rối cộng với những quy định nghiêm ngặt
như yêu cầu thế chấp của các định chế chính thức khiến cho rất nhiều đối tượng
cần vay vốn ở nông thôn không tiếp cận được với tín dụng chính thức. Do đó, các
định chế tài chính chính thức thường thích giao dịch với khách hàng lớn có nhu
cầu tín dụng lớn, không chú trọng đến các doanh nghiệp nông thôn quy mô nhỏ,
các hộ gia đình thu nhập thấp, các nông dân không có đất. Ngoài ra, các định
chế chính thức thường tập trung vào thành thị, hạn chế nhu cầu tín dụng của
người dân ở nông thôn.
Thiếu vốn buộc người dân ở nông thôn tìm đến bà con, bạn bè, láng giềng,
người cho vay nặng lãi, chủ đất, các hội tiết kiệm-tín dụng tự phát, những hội
tương trợ ..., đây là khu vực tín dụng phi chính thức. Tại các vùng nông thôn
của những nước đang phát triển, khu vực phi chính thức đóng vai trò quan trọng
trong việc giải quyết nhu cầu tín dụng rất cụ thể và thiết thực của người dân,
như vốn để sản xuất nhỏ, vay ăn giáp hạt, trang trải những chi tiêu đột xuất
trong gia đình. Ở một số vùng, đây là nguồn tín dụng duy nhất dành cho người
nghèo. Nhìn chung, tín dụng phi chính thức góp phần giúp nông dân đối phó kịp
thời những tình huống cấp bách như mất mùa, mất việc, bệnh tật hay ma chay
trong gia đình.
So với khu vực chính thức, khu vực phi chính thức có nhiều đặc điểm phù hợp
với người nghèo ở nông thôn như: gần gũi với nông hộ, nằm ngay trong ấp/thôn;
hoạt động linh hoạt, các điều khoản tín dụng đáp ứng nhu cầu cụ thể và tương
xứng với khả năng của từng khách hàng; thủ tục giao dịch đơn giản gọn nhẹ, ít
phiền hà; quy tắc dễ hiểu và dễ thực hiện[2]; tín dụng nhanh chóng đến tay người có nhu cầu vay vốn; các giao dịch chủ
yếu dựa vào chữ tín, quan hệ cá nhân giữa người cho vay và người đi vay.
Tuy nhiên, tín dụng phi chính thức cũng có nhiều hạn chế và nhược điểm,
nhất là
lãi suất rất cao, có khi lên đến 5-10% / tuần, hay 10-20% / tháng; kèm
theo những ràng buộc như mua nguyên vật liệu, hàng hóa tiêu dùng, hoặc bán sản
phẩm hay sức lao động, gây bất lợi cho người đi vay; các khoản vay có giá trị
nhỏ và rất ngắn ngày, không kích thích hoạt động đầu tư trung hạn và dài hạn
của nhà nông.
1.2 Tín dụng là hoạt động phúc lợi xã
hội hay tài chính?
Khi phát triển hệ thống tài chính phục vụ nông thôn, có một câu hỏi thường
bị bỏ qua hoặc không được xem xét một cách thỏa đáng là: nên xem các
chương trình tín dụng nông thôn là các chương trình phúc lợi xã hội thuần túy,
hay là những dịch vụ tài chính bình thường? Để trả lời câu hỏi này, cần
tìm hiểu quá trình tiến triển của những cách tiếp cận tín dụng nông thôn.
Trong cách tiếp cận truyền thống (hay kiểu cũ), để kích thích nông nghiệp
tăng trưởng và giảm nghèo đói, chính phủ nhiều nước áp dụng những biện pháp can
thiệp trực tiếp, ví dụ như các chương trình tín dụng có chỉ đạo, cấp tín dụng
với giá ưu đãi … Thông thường, chính phủ lập những tổ chức tín dụng quốc doanh
chuyên trách, giao cho các tổ chức này nguồn vốn với giá ưu đãi (ví dụ từ các
định chế tài chính quốc tế) rồi đem cho vay lại với lãi suất thấp hơn
mức thị trường. Các tổ chức quốc tế cũng hết sức ủng hộ hình thức tín dụng được
trợ cấp này. Ví dụ, Ngân hàng Thế giới đã cho vay 16,5 tỉ đô-la đối với các
chương trình tín dụng nông nghiệp trước năm 1992.
Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu sau đó đã cho thấy những kiểu can thiệp trực
tiếp như vậy thường kém hiệu quả, và thường làm chậm lại, chứ không phải đẩy
nhanh, bước phát triển của thị trường tài chính nông thôn. Những chương trình
đó thường thất bại (phạm vi phục vụ hạn chế và có nhiều tổn thất)[3] do ch ú trọng vào mục tiêu cấp càng nhiều tín dụng càng tốt (xem như một
tiêu chí để đánh giá hiệu quả hoạt động), nhưng lại bỏ qua những khía cạnh như
chất lượng của danh mục cho vay, khả năng huy động tiết kiệm, phát triển kinh
tế phi nông nghiệp, và hiệu quả của thị trường tài chính.
Một trong những hậu quả xấu của hình thức trợ cấp tín dụng là hiện tượng
“làm hỏng nông dân”: Khi tiếp cận tín dụng bao cấp, người cho vay đã chấp nhận
rủi ro cao, sẵn sàng hy sinh nợ nếu đối tượng cho vay không trả nổi. Người đi
vay không coi nợ vay là tiền hỗ trợ sẽ hình thành tâm lý chây ỳ, thậm chí quịt
nợ. Trả nợ chậm, thiếu nợ trở thành phong trào chung rồi chuyển thành tập quán
n ông dân quịt nợ cho vay giảm nghèo được sẽ chuyển sang quịt mọi khoản nợ khác
của các ngân hàng kinh doanh thương mại, kết quả là hoạt động tín dụng trong cả
khu vực bị phá hỏng. Không ngân hàng nào dám cho vay, dành hoàn toàn thiểu vốn
vay.
Bắt đầu từ thập niên 1980 xuất hiện cách tiếp cận kiểu mới về tín dụng nông
thôn. Cách tiếp cận này tuy vẫn đặt trọng
tâm vào tăng thu nhập và giảm đói nghèo ở nông thôn, nhưng đề nghị chính phủ
giảm bớt can thiệp để đảm bảo hiệu quả của thị trường tài chính nông thôn, đồng
thời khuyến khích huy động tiết kiệm, áp dụng các tập quán và chuẩn mực tài
chính đúng đắn (ví dụ dùng phân tích chi phí-lợi ích trong hoạt động tín dụng).
Theo những người ủng hộ cách tiếp cận này, cần tập trung vào ba điểm:
§ Tạo ra một môi trường chính sách thuận lợi, ví dụ như đảm bảo tính ổn định
kinh tế vĩ mô, bãi bỏ (hoặc chí ít là hạn chế) những chính sách quá thiên vị
cho thành thị, tiến hành những cải cách tổng quát hơn đối với khu vực tài
chính.
§ Hoàn thiện các thể chế luật pháp và quản lý điều tiết để tạo thuận lợi cho
giao dịch tài chính, ví dụ như thủ tục đăng ký và cấp sổ đỏ xác nhận chủ quyền
đất, cải tổ luật giao dịch bảo đảm, giảm bớt quy định quản lý (nhất là những áp
đặt về lãi suất) đối với các tổ chức tín dụng.
§
Chính phủ vẫn có thể có
những can thiệp trực tiếp nhưng chỉ khi nào cần để khắc phục những thất bại thị
trường.
1.3 Lãi suất: ưu đãi hay để thị trường
quyết định?
Một câu hỏi quan trọng là làm sao để duy trì khả năng
phát triển bền vững của một chương trình tín dụng: nên áp dụng lãi suất cho vay
ưu đãi (có trợ cấp) hay lãi suất thị trường?
Một suy nghĩ phổ biến là người nghèo (đối tượng chính của
hầu hết các chương trình tín dụng nông thôn) không đủ sức trả lãi theo mức thị
trường. Do vậy, lãi suất cho vay thường được trợ cấp rất nhiều (thấp hơn lãi suất
phổ biến trên thị trường), và thường được ấn định ở mức thấp hơn mức lạm phát,
khiến cho lãi suất thực tế có giá trị âm. Trên lý thuyết, ở mức lãi suất thực
âm, nhu cầu tín dụng sẽ trở nên vô hạn, cung không thể đáp ứng cầu, mặt khác
giá trị thực của nguồn vốn cho vay sẽ giảm dần, nói cách khác là nguồn cung thu
hẹp lại. Cung thấp hơn c ầu thì
giá trị vốn vay thực tế tăng lên. Sự chênh lệch giữa
giá áp đ ặt
giả tạo và giá thực
tạo ra động l ực tham nhũng của cơ chế xin cho. Do đó, tín dụng có thể sẽ không
đến được đúng đối tượng cần phục vụ, mà lọt vào tay những người có thế lực hoặc
có quan hệ tốt, và những người này lại đem tín dụng giá rẻ cho vay lại với lãi
suất cao hơn; vô hiệu hóa ý định cung cấp tín dụng giá rẻ cho người thực sự cần.
Ngoài ra, người được vay vốn giá rẻ có xu hướng xem tín dụng là một hình thức
trợ cấp (hay nói nôm na là “tiền chùa”); nảy sinh tâm lý quịt nợ. Trong tình
hình đó, các chương trình tín dụng sẽ không thể tiếp tục hoạt động nếu không có
những khoản trợ cấp lớn của chính phủ (tăng thêm gánh nặng ngân sách) hoặc bơm
thêm vốn từ bên ngoài. Do vậy, để bảo đảm khả năng phát triển bền vững về dài hạn,
một chương trình tín dụng cần phải áp dụng lãi suất đủ để trang trải chi phí hoạt
động cũng như bảo vệ giá trị thực của nguồn vốn.
Kinh nghiệm tại nhiều nước cho thấy tín dụng được trợ cấp
không phải là chìa khóa cho thành công của tài chính ở cơ sở. Nhu cầu chính của
người nghèo, là dễ dàng và nhanh chóng vay được được vốn, và chi phí giao dịch
thấp (thủ tục đơn giản và nhanh chóng nhận được tiền), chứ không phải tín dụng
giá rẻ. Các nghiên cứu thực nghiệm cho thấy mức lãi suất thị trường sẽ đảm bảo
cả tính công bằng lẫn tính hiệu quả trong cung cấp tín dụng cho nông dân.
1.4 Chính sách cho nông dân hay chính
sách cho chính ngân hàng?
Khi nhà nước ban hành nhiều chính sách ưu đãi
vốn vay cho nông dân thì tưởng như mọi việc đã được giải quyết, chính sách về
thủ tục ngày càng đơn giản (việc thế chấp dễ hơn, thay bằng sổ đỏ, chuyển sang
tín chấp…), thời hạn cho vay dài hơn (cho vay trung hạn, dài hạn…), lượng vốn
vay tăng lên (từ 10 triệu lên 20 triệu), các điều kiện về đối tượng, mục đích
vay, cũng cải thiện đáng kể. Tuy nhiên, đi vào thực tế, việc vay vốn của nông
dân vẫn gặp nhiều khó khăn, không chỉ đối với người nghèo mà ngay cả trang trại,
hợp tác xã, doanh nghiệp nhỏ nông thôn cũng thường xuyên phàn nàn về thủ tục và
điều kiện vay vốn. Một trong những nguyên nhân nằm ngay trong nội bộ ngân hàng.
Ở Việt Nam cũng như nhiều nước đang phát
triển.“ngân hàng thương mại” chưa thực sự là doanh nghiệp kinh doanh. Nhân viên
ngân hàng không được hưởng chính sách thưởng doanh số, ngược lại phải chịu phạt
khi gặp rủi ro. Cũng như vậy, chi nhánh ngân hàng chưa được hưởng lợi thỏa đáng
từ lợi nhuận kinh doanh. Kết quả là hoạt động của ngân hàng hướng về bảo toàn vốn,
tối đa hóa an toàn thay vì tối đa hóa lợi nhuận, tối đa hóa qui mô phục vụ. Xu
hướng thích phục vụ khách hàng thành phố, khách hàng lớn là điều tất nhiên. Muốn
khắc phục tình trạng này, cần triệt để cải tổ hệ thống tín dụng nông thôn theo
2 hướng:
-
Thương mại hoá ngân hàng thương mại, khuyến
khích doanh nghiệp và nhân viên mở rộng doanh số cùng với phòng tránh rủi ro.
-
Tổ chức hệ thống tín dụng của hợp tác xã, lấy
phục vụ xã viên làm mục tiêu, đảm bảo lãi xuất đủ bù đắp chi phí và rủi ro
trong hoạt động.
1.4 Đo lường hiệu quả hoạt động của các
chương trình tín dụng nông thôn
Làm sao biết một chương trình tín dụng nông thôn đóng góp như thế nào
vào việc tăng thu nhập và giảm nghèo đói? Khó mà trả lời chính xác câu hỏi này
vì ít khi thấy rõ người vay sử dụng tiền làm gì. Nhiều nhà nghiên cứu như Jacob
Yaron và đồng nghiệp[4] đã đưa
ra một khuôn khổ mới dựa trên phạm vi phục vụ và khả năng tự phát triển bền vững
để xem xét thành quả của các chương trình tín dụng. Theo cách đánh giá này, những
ưu tiên tài chính nông thôn nào cung cấp nhiều dịch vụ có hiệu quả cho khách
hàng ưu ti ên thì có tác động làm tăng thu nhập và giảm nghèo đói.
Khả năng tự phát triển bền vững được đánh giá bằng chỉ số
mức độ phụ thuộc vào trợ cấp. Chỉ số này thể hiện mức phần trăm mà lãi suất cho
vay trung bình của cơ quan tín dụng cần phải tăng lên để có thể tự phát triển bền
vững nếu không có trợ cấp. Các phương pháp kế toán thông thường không ghi nhận
các khoản trợ cấp dành cho các tổ chức tài chính nông thôn; do đó không phản
ánh đúng chi phí xã hội để duy trì những đơn vị này. Do trợ cấp được dùng khá
phổ biến trong tài chính nông thôn, ghi nhận mức độ phụ thuộc vào trợ cấp có ý
nghĩa quan trọng trong việc đánh giá hiệu quả của tín dụng nông thôn.
Phạm vi phục vụ được đo lường bằng cách kết hợp nhiều chỉ
tiêu, chẳng hạn như số lượng khách hàng, giá trị của danh mục cho vay và tỉ lệ
tăng trưởng hàng năm, tỉ lệ khách hàng nữ (đặc biệt quan trọng ở những xã hội
phân biệt đối xử với phụ nữ), giá trị khoản vay trung bình (làm chỉ tiêu đại diện
cho mức thu nhập của khách hàng), v.v…

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG TÍN DỤNG NÔNG
NGHIỆP, NÔNG THÔN VIỆT NAM QUA CÁC GIAI ĐOẠN
2.1. Giai đoạn trước năm 2002:
2.1.1.Tổng quan
Trước đổi mới, lĩnh vực tài chính Việt Nam hoàn toàn do
nhà nước độc quyền, với các đặc trưng chính là trợ cấp lan tràn, lãi suất thực
âm, và cơ cấu lãi suất nghịch đảo (tức là lãi suất tiền gửi cao hơn lãi suất
cho vay). Trước năm 1988, Việt Nam chỉ có hệ thống ngân hàng một cấp, với Ngân
hàng Nhà nước (NHNN) và hai tổ chức chuyên ngành là Ngân hàng Đầu tư và Phát
triển, và Ngân hàng Ngoại thương (Vietcombank). Nhìn chung, Ngân hàng Nhà nước
có hai chức năng chính: 1) phân bổ các nguồn vốn của chính phủ cho các đơn vị
kinh tế theo kế hoạch trung ương, và 2) chuyển những khoản thặng dư từ các đơn
vị kinh tế trở lại ngân sách nhà nước.
Năm 1988, Việt Nam bãi bỏ hệ thống ngân hàng một cấp, và
bắt đầu áp dụng hệ thống hai cấp, với Ngân hàng Nhà nước đóng vai trò như một
ngân hàng trung ương. Hai đơn vị trực thuộc NHNN được tách ra thành hai ngân
hàng thương mại quốc doanh là Ngân hàng Công Thương và Ngân hàng Nông nghiệp Việt
Nam. Những bước phát triển quan trọng nhất ảnh hưởng đến khu vực tài chính nông
thôn trong giai đoạn chuyển tiếp từ kinh tế kế hoạch tập trung sang kinh tế thị
trường là những thay đổi về cơ cấu tài chính chính thức và bán chính thức và
cách thức hoạt động của hệ thống ngân hàng. Những thay đổi bao gồm sự sụp đổ của
những hợp tác xã tín dụng truyền thống trong giai đoạn 1989-1990, và sự hình
thành nhiều loại tổ chức mới nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế nông thôn.
Về cơ bản, hệ thống tài chính phục vụ nông thôn ở Việt
Nam gồm ba mảng chính. Thứ nhất là khu
vực chính thức với hai tổ chức thuộc chính phủ là Ngân hàng nông nghiệp và
phát triển nông thôn, Ngân hàng phục vụ người nghèo, các quỹ tín dụng nhân dân
chịu sự giám sát của NHNN, và các ngân hàng cổ phần tư nhân. Thứ hai, khu vực
bán chính thức có sự tham gia của các tổ chức quần chúng và các tổ chức phi
chính phủ. Thứ ba, khu vực phi chính thức gồm các nguồn tín dụng trong
xã hội như từ gia đình, thân nhân, bạn bè và láng giềng, từ những người cho vay
lãi và các hội (họ/hụi).

Nguồn: Điều tra Mức sống Dân cư Việt Nam 1997-1998.
![]() |
Nguồn: Điều tra Mức sống Dân cư
Việt Nam 1997-1998.
2.1.2.Cơ cấu thị trường
a, Khu vực chính thức:
Ngân
hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (NHNN&PTNT) được thành lập năm
1988 sau khi tách ra từ bộ phận tín dụng nông nghiệp của NHNN, thực sự hoạt động
vào tháng 12/1990, sau khi luật ngân hàng có hiệu lực kể từ ngày 1/10/1990. NHNN&PTNT
tiếp quản mạng lưới chi nhánh của NHNN ở nông thôn. Tính đến cuối năm 2001,
NHNN&PTNT có khoảng 2600 chi nhánh nằm rải rác khắp đất nước.
Để tăng phạm vi phục vụ khách hàng ở nông thôn, NHNN&PTNT đã có một số
đổi mới như lập các tổ cho vay lưu động, đặt văn phòng giao dịch ở cấp cơ sở.
Đến cuối năm 1998, ngoài trụ sở chính ở Hà Nội và hai văn phòng vùng,
NHNN&PTNT có chi nhánh ở 61 tỉnh thành, 527 chi nhánh quận huyện, 604 chi
nhánh ngân hàng liên xã và 75 tổ cho vay lưu động. (McCarty, 2001). Ngân hàng
áp dụng hình thức cho vay theo nhóm cùng chịu trách nhiệm chung. Mỗi nhóm có từ
10 đến 20 người. Các thành viên trong nhóm thỏa thuận cùng chịu trách nhiệm trả
nợ. Cán bộ ngân hàng giữ liên hệ mật thiết với trưởng nhóm. Tuy nhiên, không có
đơn xin vay chung cả nhóm, mà mỗi đơn xin vay sẽ được giải quyết cá nhân. Tương
tự, những người có gửi tiền tiết kiệm cũng có sổ tiết kiệm riêng. Ngoài ra,
ngân hàng còn phối hợp với những tổ chức quần chúng để cung cấp các dịch vụ tài
chính cho hội viên của những tổ chức quần chúng đó. Những tổ chức quần chúng
như Hội Liên hiệp Phụ nữ, Hội Nông dân đứng ra lập những nhóm được bão lãnh để
vay tiền, và có bảo đảm chung là sẽ hoàn trả nợ vay. Nhờ đó, ngân hàng đã nhanh
chóng mở rộng đối tượng khách hàng được phục vụ. Ví dụ, chỉ trong thời gian từ
1994 đến 1997, tỉ lệ nông hộ vay được tiền của ngân hàng tăng từ 9% lên đến
40%.
Ban đầu, ngân hàng gần như chỉ cấp tín dụng
cho các doanh nghiệp nhà nước. Nhưng khi các thành phần kinh tế tư nhân chiếm
lĩnh hoạt động sản xuất nông nghiệp, ngân hàng đã chuyển sang tập trung cho vay
với nông hộ. Tháng 7/1991, ngân hàng chính thức được phép cho nông hộ vay, và
chỉ trong vòng sáu tháng ngân hàng đã cho 558.680 hộ vay với tổng số tiền khoảng
405 tỉ đồng. Trong năm 1998, 63% dư nợ
cho vay của ngân hàng là dành cho các nông hộ.
Các nông hộ muốn vay cũng phải có tài sản thế
chấp (và thường phải có bảo lãnh của chính quyền xã), và chỉ được vay dưới 70%
giá trị tài sản thế chấp. Tuy ngân hàng có chức năng cung cấp tín dụng với mọi
kỳ hạn, các khoản vay thường là ngắn hạn và trung hạn, và 75% các khoản vay là
dưới 12 tháng. Lãi vay thường là 1% / tháng (hoặc 1,5% / tháng đối với vay dài
hạn).

Ngân hàng phục vụ người nghèo (NHPVNN) là một tổ chức phi lợi nhuận được
thành lập vào tháng 8 năm 1995. Mục tiêu chính của ngân hàng là phục vụ chương
trình xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam. Tất cả những chương trình cho vay chống nghèo
đói đều tập trung qua ngân hàng này. NHPVNN bắt đầu hoạt động vào ngày
1/1/1996. Ngân hàng không thiết lập hệ thống của riêng mình trên toàn quốc, mà
sử dụng mạng lưới chi nhánh và cán bộ của NHNN&PTNT.[5] NHPVNN
không huy động tiết kiệm, mà chủ yếu dựa vào chính phủ và các ngân hàng quốc
doanh để có nguồn vốn cho vay.
NHPVNN tham gia giảm nghèo đói bằng cách cấp tín dụng cho những ai không
đủ điều kiện vay từ NHNN&PTNT do không có tài sản thế chấp. Do vậy, chỉ những
hộ gia đình nào là thành viên của nhóm chịu trách nhiệm chung (cũng do các tổ
chức quần chúng hỗ trợ hình thành) mới được vay.[6] Các hộ
muốn vay cũng phải nằm trong diện nghèo theo tiêu chuẩn Việt Nam.[7] Kỳ hạn
vay tối đa là 36 tháng, và mức vay tối đa là 2,5 triệu đồng. Lãi vay là lãi suất
ưu đãi do NHNN ấn định ở mức 0,7% / tháng. Trong đó, tổ chức xã hội ở địa
phương giữ 0,1% cho chi phí giám sát; NHNN&PTNT giữ 0,25% cho chi phí hành
chính; và NHPVNN giữ 0,35 để trang trải chi phí vốn. Tính đến cuối năm 1999,
NHPVNN đã cấp tín dụng cho hơn 2,3 triệu hộ nghèo với tổng dư nợ 3.879 tỉ đồng.
Quỹ tín dụng nhân dân (QTDND) bắt đầu từ một chương trình thí điểm chịu sự giám sát của NHNN
vào tháng 7/1993, là hình thức hợp tác xã tiết kiệm và tín dụng cấp xã xây dựng
theo mô hình Caisse Populaire ở Quebec, Canada. Khi đó, một trong những mục
tiêu quan trọng của NHNN là khôi phục lòng tin của người dân đối với hệ thống
tín dụng nông thôn sau sự sụp đổ của hàng loạt hợp tác xã tín dụng.[8]
Tuy mang tên mới, QTDND vẫn hoạt động theo luật hợp tác xã. Theo đó,
QTDND chỉ cho xã viên vay, dù nhận tiền gửi của cả xã viên lẫn những người
không phải xã viên. Tuy các khoản vay nhỏ không cần thế chấp, các khoản vay lớn
vẫn cần phải thế chấp bằng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hay tài sản khác.
Kỳ hạn cho vay thường dưới 12 tháng. Lãi suất vay (khoảng 1,5% tháng) và lãi suất
tiền gửi (0,9%) do NHNN ấn định, và thường cao hơn lãi suất của NHNN&PTNN
và NHPVNN.
Hệ thống QTDND có ba cấp: quỹ tín dụng địa phương, quỹ tín dụng vùng, và
quỹ tín dụng trung ương. Tính đến cuối năm 1999, có 981 QTDND ở các cấp xã,
vùng và trung ương, với khoảng 630.000 xã viên.[9] Theo Dao
& Hotte (1998), QTDND tương đối thành công trong việc huy động tiết kiệm do
những nguyên nhân như sau: (1) gần với khách hàng nên dễ gởi tiền và rút tiền; (2)
lãi suất tiền gửi cao hơn (từ 0,5% đến 0,7% / tháng) so với các tổ chức tín dụng
khác; (3) phương pháp huy động tiết kiệm đa dạng và điều chỉnh theo nhu cầu
khách hàng; và (4) có bảo hiểm đối với những khoản tiền gửi có kỳ hạn trên 3
tháng.[10]
Ngân hàng cổ phần nông thôn hình thành từ việc sắp xếp lại hoặc sáp nhập
các hợp tác xã tín dụng. Tuy đạt một số kết quả khả quan với những chương trình
cho phụ nữ vay (phối hợp với Hội Liên hiệp Phụ nữ) với tỉ lệ trả nợ đến 98,3%,
các ngân hàng cổ phần vẫn còn hạn chế về phạm vi phục vụ hộ nghèo ở nông thôn.
Các ngân hàng này tập trung cho vay đối với những nông hộ và người buôn bán
trong địa phương phục vụ. Mức cho vay thường thấp, từ 1 đến 3 triệu, và cho các
mục đích ngắn hạn như mua hạt giống, phân bón và thuốc trừ sâu. Lãi vay thường
cao hơn 0,5% - 1% so với lãi suất của NHNN&PTNT. Tất cả các ngân hàng này đều
yêu cầu phải có thế chấp mới được vay. Một trong những hạn chế của những ngân
hàng này là thiếu vốn trầm trọng, và rất thiếu tính thanh khoản. Một vấn đề khác
là những ngân hàng này phải chịu mức trần lãi suất tiền gửi do NHNN ấn định, do
vậy còn hạn chế về khả năng huy động tiết kiệm.
Hình 2‑3: Dư nợ của
hệ thống ngân hàng đối với nông nghiệp - nông thôn (tính đến 30/6/2001)

Nguồn: Nguyễn Đức Hoàn (2001)
b, Khu vực tài chính bán chính thức:
Với
mạng lưới trải rộng cả bốn cấp hành chính (trung ương, tỉnh thành, quận huyện,
và phường xã), các tổ chức quần chúng đóng vai trò đặc biệt trong việc đem tín
dụng đến tận người dân ở cơ sở. Các tổ chức này hỗ trợ chính phủ trong việc cho
vay theo những chương trình của nhà nước, ví dụ như Chương trình quốc gia về
Xóa đói giảm nghèo, Chương trình phủ xanh đất trống đồi trọc, Chương trình giải
quyết việc làm. Ngoài ra, các tổ chức này được xem là “người môi giới” giữa
NHNN&PTNT / NHPVNN và người đi vay. Họ cũng hỗ trợ ủy ban nhân dân địa
phương thành lập những nhóm cùng chịu trách nhiệm để bảo lãnh cho các khoản vay
ở cấp xã. Để đổi lại dịch vụ này, các tổ chức quần chúng nhận hoa hồng từ
NHNN&PTNT / NHPVNN.
Những
tổ chức quần chúng tham gia tích cực vào hoạt động tiết kiệm và tín dụng là Hội
Liên hiệp Phụ nữ, Hội Nông dân, Hội Liên hiệp Thanh niên, Hội Cựu chiến binh và
Hội Người làm vườn. Trong đó, Hội Liên hiệp Phụ nữ được xem là thành công nhất
trong việc đáp ứng nhu cầu về dịch vụ tài chính của các hội viên.[11] Tuy chủ
yếu dựa vào nguồn quỹ của chính phủ, nhưng với vai trò trung gian xã hội của
mình, các tổ chức quần chúng có năng lực lớn trong phát triển cộng đồng, và nhờ
đó góp phần lớn vào phát triển tài chính vi mô. Kinh nghiệm hoạt động của các
nhóm tiết kiệm và tín dụng cho thấy một kết luận rất quan trọng: người nghèo là
những khách hàng tốt, coi trọng những dịch vụ tiết kiệm và tín dụng do các tổ
chức bán chính thức cung cấp, được thể hiện rõ bằng tỉ lệ trả nợ cao và động lực
tiết kiệm cao.
Từ đầu
thập niên 1990, các tổ chức phi chính phủ (NGO) nước ngoài[12] đã bắt
đầu tham gia hỗ trợ kỹ thuật cho các chương trình tín dụng cho người nghèo. Trong đó đáng kể là các tổ chức Groupe de Recherche et
d’Echanges Technologiques (GRET), ActionAid, Développement International Des
Jardins (CARE), Save The Children Fund (Anh), và OXFAM. Họ tham gia tích cực
vào việc huy động tiết kiệm, cũng như đào tạo năng lực cho các nhóm tiết kiệm
tín dụng, và các tổ chức quần chúng. Cũng cần lưu ý rằng một số NGO dùng chương
trình tiết kiệm và tín dụng làm “chìa khóa mở cửa” để thâm nhập vào các làng xã
để thực hiện những hoạt động chính của họ, ví dụ như y tế, kế hoạch hóa gia
đình …Khách hàng của các NGO là phụ nữ nghèo, cộng đồng dân tộc thiểu số, và
người nghèo ở vùng sâu vùng xa; thường là những đối tượng mà khu vực tài chính
chính thức chưa đủ khả năng tiếp cận để phục vụ.

Các NGO đã đạt được thành công nhất định trong hoạt động
tài chính ở cơ sở có tỉ lệ trả nợ cao và mức tăng trưởng tiết kiệm. Ưu điểm của
các NGO này là có lãi suất cao hơn so với những tổ chức tài chính được chính phủ
quản lý, do đó, có mức chênh lệch lãi suất cao hơn, và mở rộng được phạm vi phục
vụ tới nhiều khách hàng mục tiêu hơn. Tuy nhiên, tầm hoạt động của các NGO vẫn
chưa lớn lắm. Theo khảo sát của McCarty (2001), tính đến năm 2000, dư nợ cho
vay của các chương trình tín dụng của các NGO chỉ mới tương đương với 7,6% con
số của các chương trình chính thức của nhà nước, và 4% của toàn bộ tín dụng
nông thôn (nếu tính luôn cả khu vực phi chính thức).
c, Khu vực
tài chính phi chính thức:
Khu vực tài chính phi chính thức chiếm một mảng lớn trong
tín dụng nông thôn ở Việt Nam, cung cấp đến 51% lượng vốn cho vay đối với các hộ
gia đình nông thôn. Tín dụng nông thôn của khu vực phi chính thức xuất phát từ
những nguồn như sau.

Nguồn: Điều tra Mức sống Dân cư Việt Nam 1997-1998.
Vay mượn từ gia đình, bà con, bạn bè và láng giềng. Thông
thường, tiền mượn từ gia đình và thân nhân không phải trả lãi, nhờ tập quán xã
hội Việt Nam khuyến khích việc giúp đỡ nhau. Các khoản vay từ bạn bè hay láng
giềng sẽ có lãi suất thỏa thuận tùy theo quan hệ xã hội, uy tín của người vay,
kỳ hạn vay. Lãi suất hàng năm có thể xê dịch rất lớn, từ không tính lãi đến lãi
hơn 100%.
Người cho vay lãi. Những người cho vay lãi có hoạt động rất
đa dạng và linh hoạt. Họ thường cho vay
những món tiền nhỏ và ngắn hạn (theo thời vụ hay theo ngày). Lãi suất cho vay dựa
vào thị trường, thường xê dịch từ 3% đến 10% / tháng. Có thể chia người cho vay
lãi thành ba loại chính. Một là loại cho vay lãi truyền thống, chủ yếu do tin
tưởng lẫn nhau, với các bước giao dịch rất gọn nhẹ, không cần thỏa thuận hợp đồng
thành văn. Kiểu truyền thống này cho vay “nóng”, đôi khi chỉ vài ngày. Hai là
kiểu cho vay đòi hỏi phải có cầm cố thế chấp; tương tự như loại một nhưng người
đi vay phải thế chấp tài sản hay đất đai. Ba là hình thức cho vay lãi thông qua
những nhà buôn nhỏ, bạn hàng, đầu mối cung cấp nguyên vật liệu … Hình thức này ngày càng phổ biến, có thể cho
vay bằng tiền mặt hay hiện vật.
Họ/Hụi đã có truyền thống từ lâu ở Việt Nam. Miền Bắc gọi
là họ, miền Nam gọi là hụi. Mỗi hội họ/hụi thường có từ 5 đến 20 hội viên ở
chung một ấp / thôn, và mỗi hội như vậy hoạt động độc lập. Mỗi hội huy động tiết
kiệm từ các hội viên và chỉ cho vay trong hội với nhau. Các vấn đề như lãi suất,
mức cho vay sẽ do các hội viên quyết định thông qua bỏ phiếu kín (dạng đấu
giá), hoặc do hội trưởng định đoạt trong những cuộc họp định kỳ. Chu kỳ của một
hội kết thúc khi tất cả mọi hội viên đã một lần nhận được tổng số tiền huy động
được tại mỗi lượt. Nhìn chung, các hộ gia đình tham gia họ/hụi để giải quyết những
nhu cầu tài chính ngắn hạn, nhưng cũng có những hội được lập để đáp ứng nhu cầu
đầu tư dài hạn, ví dụ có hội kéo dài được mấy vụ mùa.
Có mấy lý do giải thích tại sao khu vực phi chính thức vẫn
còn là nguồn tín dụng quan trọng đối với các nông hộ. Thứ nhất, cầu vượt
cung tín dụng chính thức: các ngân hàng quốc doanh và tư nhân cũng như các
chương trình tín dụng chính thức chưa đủ khả năng đáp ứng hết các nhu cầu vay vốn
rất cụ thể của các nông hộ. Thứ hai, các cơ chế cho vay của các tổ chức
chính thức vẫn còn nhiều ràng buộc khiến cho những đối tượng nghèo nhất không
tiếp cận được với nguồn tín dụng chính thức. Do vậy, có thể một phần của tín dụng
chính thức đến với người đi vay cuối cùng lại qua con đường phi chính thức: những
người có thể vay được từ các tổ chức chính thức sẽ đem số tiền đó cho những người
“kém may mắn hơn” vay lại với lãi suất cao hơn. Thứ ba (đây cũng là lý
do thường thấy qua kinh nghiệm các nước khác), trình độ dân trí ở nông thôn còn
thấp, nhất là ở những vùng sâu vùng xa, nên người dân còn tâm lý “sợ giao dịch
với ngân hàng”, trong khi đó một số tổ chức tín dụng chính thức vẫn chưa tìm ra
cách thích hợp để đem vốn đến với nông hộ.
Mảng tín dụng nông thôn phi chính thức này có hai đặc điểm
chính. Thứ nhất, tất cả những nguồn vốn đều huy động ngay tại địa phương. Do vậy,
về lâu dài, khả năng tích lũy vốn bị hạn chế, không đủ đáp ứng nhu cầu đầu tư sản
xuất và tiêu dùng của người dân. Thứ hai, lãi suất của khu vực phi chính thức
thường cao hơn mức lạm phát, và có lãi suất thực dương. Lãi suất của thị trường
“ngầm” này cũng cao hơn nhiều so với lãi suất của hệ thống tài chính chính thức,
nhưng vẫn được khách hàng chấp thuận. Điều đó chứng tỏ rằng đối với các nông
dân và những người hoạt động kinh doanh ở nông thôn, việc vay được vốn dễ dàng
và kịp thời, cũng như chất lượng của dịch vụ có ý nghĩa quan trọng hơn so với mức
lãi vay. Khi nền kinh tế nông thôn phát triển mạnh, sẽ cần có nhiều khoản đầu
tư quy mô lớn và dài hạn hơn, do các nông hộ và doanh nghiệp nông thôn chuyển đổi
cơ cấu và phát triển sản xuất. Bước chuyển biến kinh tế này đòi hỏi phải có một
hệ thống tài chính chính thức phát triển mạnh hơn.
2.2 Giai đoạn 2002-2010:
Bên cạnh sự
tham gia của các tổ chức phi chính phủ nước ngoài vào thị trường tài chính nông
thôn, các tổ chức đoàn thể, quần chúng trong nước cũng tích cực triển khai các
chương trình, dự án tài chính vi mô lớn như chương trình Quỹ trợ vốn cho người
nghèo tự tạo việc làm (CEP) của Liên đoàn lao động thành phố Hồ Chí Minh; Quỹ
tình thương của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam và mạng lưới tài chính vi mô M7.
Những tổ chức quần chúng tham gia tích cực vào hoạt động tiết kiệm và tín dụng
là Hội Liên hiệp Phụ nữ, Hội Nông dân, Hội Liên hiệp Thanh niên, Hội Cựu chiến
binh và Hội Người làm vườn. Trong đó, Hội Liên hiệp Phụ nữ được xem là thành
công nhất trong việc đáp ứng nhu cầu về dịch vụ tài chính của các hội viên.
- Đối tượng được tiếp cận nguồn vốn tín dụng
ngày càng tăng đã thúc đẩy phát triển nông nghiệp, nông thôn và chuyển dịch cơ
cấu
Nhờ có mạng
lưới kinh doanh trải rộng cùng với việc áp dụng hình thức cho vay theo nhóm,
phối hợp với những tổ chức quần chúng để cung cấp các dịch vụ tài chính,… đối
tượng khách hàng được phục vụ cũng như các kênh dẫn vốn tới hộ sản xuất, doanh
nghiệp cũng được mở rộng, phát triển khắp các vùng kinh tế của đất nước. Trong
thời gian từ 1994 đến 2007, tỉ lệ hộ gia đình nông thôn vay được tiền của các
định chế tài chính đã tăng từ 9% lên đến 70%. Hoạt động tín dụng đã thực sự gắn
với làng, bản, xóm thôn, gần gũi với bà con nông dân. Vốn cho vay đã tạo thêm
nghề mới, khôi phục các làng nghề truyền thống, góp phần chuyển dịch cơ cấu
nông nghiệp, nông thôn theo hướng phát triển sản xuất hàng hoá, công nghiệp,
dịch vụ.
Với số vốn
đầu tư hàng ngàn tỉ đồng, các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng đã giúp
hàng vạn hộ nông dân đẩy mạnh sản xuất, chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi
theo mùa vụ và tiếp tục mở rộng ngành nghề góp phần làm tăng thu nhập và cải
thiện đời sống. Nhờ mở rộng đầu tư tín dụng cùng với vốn tự có và sức lao động
đã giúp họ có điều kiện khai thác tiềm năng kinh tế tự nhiên của mỗi vùng, từng
bước hình thành các vùng chuyên canh lúa, hoa màu và cây công nghiệp có tỷ suất
hàng hóa cao, như ở các vùng lúa đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu
Long, vùng cây công nghiệp dài ngày (chè, cà phê) ở Tây Nguyên, vùng cây ăn quả
lâu năm ở các tỉnh Trung du và miền núi phía Bắc…
Đi đôi với
việc đầu tư cho trồng trọt, chăn nuôi các ngân hàng đã mở rộng cho vay phát
triển ngành nghề tạo bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng tăng
tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ trọng nông nghiệp. Đối tượng cho vay
không còn đơn lẻ như những năm trước, mà đã được mở rộng như: cho vay xây dựng
kết cấu hạ tầng ở nông thôn (điện, đường giao thông), cho các doanh nghiệp vừa
và nhỏ vay để mở rộng quy mô sản xuất. Đặc biệt là phát triển việc cho các làng
nghề vay theo hướng sản xuất hàng hóa như chế biến nông lâm sản, chăn nuôi đại
gia súc gia cầm, làm các nghề mộc, nghề rèn, thêu ren, đồ thủ công mỹ nghệ…
Hiện nay, cả nước có khoảng trên 2.000 làng nghề với khoảng 1,4 triệu hộ, thu
hút trên 10 triệu lao động. Kim ngạch xuất khẩu đồ thủ công mỹ nghệ tăng từ 235
triệu USD (năm 2001) lên 450 triệu USD (năm 2004) và đến nay con số này đã tăng
gấp nhiều lần. Thị trường xuất khẩu được mở rộng, hàng hóa Việt Nam xuất khẩu
đã có ở trên 100 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới như: Mỹ, Nhật Bản, Tây Ban
Nha, Bỉ, Trung Quốc, Đài Loan… Sản xuất tiểu thủ công nghiệp và ngành nghề dịch
vụ nông thôn tiếp tục phát triển bình quân tăng 15%/ năm. Nhờ đó, thu nhập của
hộ nông dân cũng ngày càng được cải thiện.
Nhằm thúc đẩy
kinh tế hàng hóa phát triển, ngân hàng còn đầu tư vốn khuyến khích các trang
trại mở rộng quy mô sản xuất, thu hút lao động có việc làm. Trong những năm gần
đây, thực tế cho thấy kinh tế trang trại đóng vai trò quan trọng trong sản xuất
nông, lâm nghiệp, thủy sản. Ngày càng xuất hiện nhiều hộ nông dân sản xuất hàng
hóa có quy mô lớn, tập trung. Ngân hàng đã giúp cho các đối tượng vay để trang trải
chi phí giống, cải tạo vườn, ao, chuồng, thậm chí cả chi phí trả công lao động
thời vụ. Vốn bình quân cho vay một trang trại từ 200 triệu đến 300 triệu đồng,
có trang trại vay đến 500 triệu đồng, Hiện nay cả nước có trên 113.730 trang
trại (tăng gấp gần 2 lần so với năm 2001), với số diện tích đất sử dụng là
663,5 ngàn ha, đã tạo việc làm thường xuyên cho 395 ngàn lao động. Đồng bằng
sông Cửu Long, Đông Nam Bộ và Tây Nguyên là những vùng có nhiều đất đai, mặt
nước thuận lợi để mở rộng quy mô trồng trọt, chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản,
nên ba vùng này có số lượng trang trại nhiều nhất (chiếm đến 70%).
- Nguồn vốn cho vay nông nghiệp, nông thôn
ngày càng tăng
Trên địa bàn
nông thôn hiện nay, ngoài các nguồn vốn cho vay từ các định chế tài chính vi
mô, thì nguồn vốn tín dụng chủ lực phục vụ nông nghiệp nông thôn là nguồn vốn
tín dụng từ hệ thống ngân hàng, mà chủ lực là NHNo&PTNT, QTDND, NHCSXH.
Nguồn vốn này thường hiện diện dưới hai hình thức là cho vay thông thường và
vay ưu đãi (theo chính sách của Nhà nước, hoặc theo các chương trình dự án của
các tổ chức tài chính quốc tế như WB, IMF,…).
Trên cơ sở
chỉ đạo của Chính phủ, hướng dẫn của NHNN, với hệ thống mạng lưới rộng khắp,
các TCTD đã đẩy mạnh cho vay lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. Nếu như 31/12/1998,
dư nợ tín dụng đối với khu vực nông nghiệp, nông thôn mới đạt 34.000 tỷ đồng,
chiếm 27,65% tổng dư nợ cho vay đối với nền kinh tế thì đến 31/10/2008, con số
này đã tăng hơn 8 lần, chiếm 23% tổng dư nợ cho vay đối với nền kinh tế.
Ngoài ra,
nhiều ngân hàng đã chủ động tìm dự án có hiệu quả, giúp các hộ và các doanh
nghiệp hoàn thành những thủ tục cần thiết để chủ động giải ngân cho vay sớm.
Thị trường tín dụng nông nghiệp, nông thôn được mở rộng, tăng được tỷ trọng số
hộ vay và mức dư nợ bình quân/hộ. Các hộ nông dân vay vốn được giải quyết nhanh
chóng, những thủ tục phiền hà đã giảm bớt, không còn tình trạng phải chờ đợi
như những năm trước đây. Đặc biệt là mức cho hộ vay đã nâng lên đến 30 triệu
đồng mà không phải thế chấp tài sản (đối với những vùng đặc biệt khó khăn, mức
cho vay tối đa lên đến 100 triệu đồng), tạo cơ hội giúp hộ nông dân chủ động
thực hiện phương án kinh doanh của mình.
Có được bước
phát triển trên, có thể nói là do sự hỗ trợ về mặt chính sách, vốn của Chính
phủ, của NHNN. Như chính sách ưu đãi về lãi suất, ưu đãi về điều kiện vay vốn,
nguồn vốn hỗ trợ cho những rủi ro do hạn hán, mất mùa, lũ lụt, thị trường tiêu
thụ gặp khó khăn. Gần đây nhất, khi lạm phát gia tăng, suy giảm kinh tế toàn
cầu… NHNN thực thi chính sách tiền tệ (CSTT) hướng tới mục tiêu kiềm chế lạm
phát, hoặc chống suy giảm kinh tế đều cân nhắc đến việc hỗ trợ cho lĩnh vực đầu
tư tín dụng này, sao cho ảnh hưởng của chính sách thắt chặt tiền tệ là thấp
nhất. Ngoài ra là sự quan tâm của các cấp chính quyền địa phương; sự nhận thức
về tầm quan trọng trong đầu tư phát triển nông nghiệp, nông thôn của bản thân
các định chế tài chính, của các tổ chức tài chính nước ngoài…
2.3. Giai đoạn từ năm 2010 đến nay:
2.3.1. Những điểm mới trong chính
sách phát triển tín dụng nông nghiệp, nông thôn:
Tín dụng ngân hàng là một trong những công cụ quan trọng được Ðảng, Nhà
nước đặc biệt quan tâm để phát triển nông nghiệp, nông thôn đối với một nước
nông nghiệp truyền thống như nước ta. Với sự ra đời của Quyết định số
67/1999/QĐ-TTg ngày 30/3/1999 của Thủ tướng Chính phủ về một số chính sách tín
dụng ngân hàng phục vụ phát triển nông nghiệp và nông thôn, tín dụng nông nghiệp
nông thôn đã đạt được một số kết quả. Dòng vốn tín dụng ngân hàng chảy vào khu
vực nông nghiệp, nông thôn đã được khơi thông, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo
hướng tích cực, góp phần xóa đói giảm nghèo, đảm bảo an sinh xã hội và nâng cao
đời sống nhân dân... Thực tế hơn 10 năm thực hiện, Quyết định 67/1999/QĐ-TTg đã
thật sự là một công cụ quan trọng để Chính phủ và các Bộ, ngành liên quan triển
khai và đưa các chính sách tín dụng nông nghiệp, nông thôn đi vào cuộc sống.
Tuy nhiên, quá trình triển khai Quyết định bộc lộ một số bất cập, cần thiết phải
được sửa đổi, bổ sung và nâng lên thành Nghị định cho phù hợp với tình hình đất
nước sau 10 năm phát triển.
Ngày 12/4/2010, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 41/2010/NĐ-CP về
chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn, thay thế Quyết định
số 67/1999/QĐ-TTg. Nghị định số 41/2010/NĐ-CP ra đời đánh dấu một sự thay đổi
quan trọng của chính sách của Nhà nước đối với tín dụng nông nghiệp, nông thôn
và về cơ bản, đã khắc phục được những bất cập của Quyết định số 67/1999/QĐ-TTg
sau hơn 10 năm thực hiện. Có thể nhận thấy rõ những điểm mới quan trọng về
chính sách tín dụng nông nghiệp, nông thôn trong Nghị định số 41/2010/NĐ-CP năm
2010 so với Quyết định số 67/1999/QĐ-TTg năm 1999, như sau:
Trước hết là sự khác nhau về hình thức văn bản pháp lý. Trước đây văn bản được thể hiện dưới hình thức Quyết định của Thủ tướng
Chính phủ thì văn bản mới này đã được nâng lên tầm Nghị định của Chính phủ. Việc
xây dựng văn bản dưới hình thức Nghị định đã thể chế hóa quan điểm của Ðảng,
Nhà nước về phát triển nông nghiệp, nông thôn nói chung được thể hiện tại Nghị
quyết Hội nghị lần thứ 7, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa X về nông nghiệp,
nông dân, nông thôn; là sự tổng kết kinh nghiệm, kế thừa có chọn lọc pháp luật
hiện hành về tín dụng nông nghiệp, nông thôn, góp phần nâng cao trách nhiệm của
các cấp, các ngành, tổ chức, cá nhân trong lĩnh vực này. Ðồng thời, việc ban
hành văn bản dưới hình thức Nghị định cũng là sự đổi mới nhận thức quản lý của
Chính phủ đối với tín dụng nông nghiệp, nông thôn phù hợp với hệ thống pháp luật
hiện hành về phát triển nông nghiệp, nông thôn; đáp ứng yêu cầu thực tế; bảo đảm
tính thống nhất và đồng bộ của hệ thống pháp luật. Nghị định có 4 chương, 25 điều,
khẳng định chính sách tín dụng nông nghiệp, nông thôn là một hệ thống các biện
pháp, chính sách của Nhà nước nhằm khuyến khích các tổ chức tín dụng cho vay, đầu
tư vào lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế, xây dựng
cơ sở hạ tầng, xóa đói giảm nghèo cho khu vực nông nghiệp, nông thôn và từng bước
nâng cao đời sống của nhân dân.
Điểm mới thứ hai của Nghị định số 41/2010/NĐ-CP là sự mở rộng về
sự tham gia của các tổ chức tín dụng trong phát triển nông nghiệp, nông thôn. Nếu như Quyết định 67/1999/QĐ-TTg khẳng định vai trò chủ lực của Ngân
hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam, khuyến khích các tổ chức tín
dụng khác tham gia thì tại Nghị định 41/2010/NĐ-CP quy định, các tổ chức tín dụng
được tổ chức và hoạt động theo Luật Các tổ chức tín dụng, các tổ chức tài chính
quy mô nhỏ, các ngân hàng, tổ chức tài chính được Chính phủ thành lập để thực
hiện việc cho vay theo chính sách của Nhà nước có quyền tham gia thực hiện cho
vay phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn. Việc cho phép các tổ chức tài
chính vi mô chính thức tham gia trong lĩnh vực tín dụng nông nghiệp, nông thôn
cũng đã khẳng định vai trò tích cực của loại hình tổ chức này đối với sự phát
triển nông nghiệp, nông thôn tại Việt Nam.
Nghị định 41/2010/NĐ-CP cũng quy định cụ thể các đối tượng được vay vốn
phát triển nông nghiệp, nông thôn bao gồm hộ gia
đình, hộ kinh doanh trên địa bàn nông thôn; cá nhân; chủ trang trại; các hợp
tác xã, tổ hợp tác trên địa bàn nông thôn; các tổ chức và cá nhân cung ứng các
dịch vụ phục vụ trồng trọt, chăn nuôi, dịch vụ tiêu thụ và xuất khẩu sản phẩm
nông, lâm, diêm nghiệp và thủy sản; các doanh nghiệp chế biến các sản phẩm từ
nông nghiệp hoặc kinh doanh trong các lĩnh vực công nghiệp, thương mại, cung ứng
dịch vụ phi nông nghiệp, có cơ sở sản xuất, kinh doanh trên địa bàn nông thôn.
Các đối tượng này phải cư trú và có cơ sở hoặc dự án sản xuất kinh doanh trên địa
bàn nông thôn. Đây là điểm mới thứ ba của Nghị định 41/2010/NĐ-CP.
Điểm mới thứ tư của Nghị định 41/2010/NĐ-CP so với Quyết định
67/1999/QĐ-TTg là những quy định chi tiết về các lĩnh vực cho vay phục vụ phát
triển nông nghiệp, nông thôn, bao gồm: cho vay chi
phí sản xuất, phát triển ngành nghề, đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng ở nông thôn,
cho vay kinh doanh sản phẩm, dịch vụ, phục vụ sản xuất công nghiệp, thương mại
và cung ứng các dịch vụ phi nông nghiệp trên địa bàn nông thôn, cho vay tiêu
dùng nhằm nâng cao đời sống nhân dân ở nông thôn và cho vay theo các chương
trình kinh tế của Chính phủ.
Quy định cụ thể về nguồn vốn cho vay của các tổ chức tín dụng có thể
coi là điểm mới thứ năm của Nghị định 41/2010/NĐ-CP với bốn nguồn vốn: nguồn vốn huy động; vốn vay, nhận tài trợ, ủy thác;
nguồn vốn ủy thác của Chính phủ và vốn vay Ngân hàng Nhà nước thông qua việc sử
dụng các công cụ điều hành chính sách tiền tệ. Với việc bổ sung thêm nguồn vốn
vay Ngân hàng Nhà nước và không quy định việc sử dụng vốn ngân sách Nhà nước
như Quyết định 67/1999/QĐ-TTg, Nghị định 41/2010/NĐ-CP đã tách bạch hoạt động
cho vay bằng vốn ngân sách nhà nước cho các đối tượng chính sách, theo các
chương trình kinh tế của Chính phủ ở nông thôn được Chính phủ bảo đảm nguồn vốn
từ ngân sách chuyển sang hoặc cấp bù chênh lệch lãi suất.
Quyết định 67/1999/QĐ-TTg và Nghị định 41/2010/NĐ-CP đều có điều khoản
quy định về cơ chế đảm bảo tiền vay và các trường hợp cho vay không có bảo đảm
bằng tài sản, song mức cho vay không có bảo đảm bằng tài sản trong Nghị định
41/2010/NĐ-CP được nâng cao hơn đối với từng loại đối tượng, phù hợp với thực tế. Đây là điểm mới thứ sáu của Nghị định 41/2010/NĐ-CP, theo đó, tổ chức
tín dụng được cho vay không có tài sản đảm bảo tối đa đến 50 triệu đồng đối với
cá nhân, hộ sản xuất; tối đa đến 200 triệu đồng đối với hộ kinh doanh, sản xuất
phục vụ nông nghiệp, nông thôn; tối đa đến 500 triệu đồng đối với hợp tác xã,
chủ trang trại. Quyết định 67/1999/QĐ-TTg chỉ cho phép tổ chức tín dụng quyết định
cho vay không có bảo đảm bằng tài sản đối với cá nhân, hộ sản xuất tối đa với mức
10 triệu đồng hoặc phải báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét giải quyết cụ thể đối
với các loại cho vay thực hiện theo chính sách của Nhà nước (như cho vay hộ
nghèo, khắc phục hậu quả thiên tai, đóng mới, cải hoán tàu đánh bắt, cho vay
cho các chương trình khác trong phạm vi nhất định thuộc các vùng, ngành nghề
khó khăn).
Điểm mới thứ bảy của Nghị định 41/2010/NĐ-CP là tạo điều kiện hơn cho
khách hàng vay vốn trong trường hợp khách hàng vay không có tài sản đảm bảo và
không có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Theo
quy định tại khoản 5, Điều 8, khách hàng được sử dụng giấy xác nhận của Ủy ban
nhân dân cấp xã nếu chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và đất
không có tranh chấp. Khách hàng cũng được ưu đãi khi không phải nộp lệ phí đăng
ký giao dịch bảo đảm khi đăng ký giao dịch bảo đảm.
Điểm mới thứ tám của Nghị định 41/2010/NĐ-CP so với Quyết định
67/1999/QĐ-TTg thể hiện ở những quy định cụ thể về nguyên tắc trích lập dự
phòng rủi ro và xử lý rủi ro. Ngân hàng Nhà nước
phối hợp với Bộ Tài chính hướng dẫn cụ thể việc trích lập và sử dụng dự phòng rủi
ro đối với cho vay trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, nhờ đó, nếu khi có rủi
ro không phải kiến nghị biện pháp xử lý trình Thủ tướng Chính phủ quyết định
như Quyết định 67/1999/QĐ-TTg, thể hiện sự tự chủ và chịu trách nhiệm của tổ chức
tín dụng trong hoạt động của mình, không trông chờ vào quyết định của Nhà nước.
Ngoài ra, Nghị định 41/2010/NĐ-CP có thêm quy định cụ thể về chính sách ưu đãi
miễn, giảm lãi đối với khách hàng tham gia bảo hiểm theo hướng áp dụng mức lãi
suất thấp hơn mức lãi suất cho vay tương ứng đối với khách hàng không mua bảo
hiểm. Quy định này sẽ khuyến khích khách hàng tích cực tham gia mua bảo hiểm
trong nông nghiệp.
Một điểm mới nữa của Nghị định 41/2010/NĐ-CP so với Quyết định
67/1999/QĐ-TTg là những quy định khá rõ về nguyên tắc và quy trình xử lý nợ vay
trong trường hợp xảy ra thiên tai, dịch bệnh trên diện rộng. Trường hợp có thiên tai, dịch bệnh trên diện rộng, theo quy định tại
khoản 2, Điều 10, tổ chức tín dụng được thực hiện khoanh nợ không tính lãi cho
người vay tối đa là 2 năm đối với dư nợ hiện còn tại thời điểm khoanh nợ và số
lãi tổ chức tín dụng đã khoanh được giảm trừ vào lợi nhuận trước thuế của tổ chức
tín dụng. Quy định này thể hiện sự ưu đãi của Nhà nước đối với các tổ chức tín
dụng khi tham gia phục vụ nông nghiệp, nông thôn và cũng là sự hỗ trợ của Nhà
nước đối với khu vực nông nghiệp, nông thôn trong các trường hợp bất khả kháng.
Nghị định cũng quy định cụ thể trường hợp khách hàng gặp khó khăn về tài chính
do nguyên nhân khách quan, không trả được nợ đúng hạn, tổ chức tín dụng có thể
xem xét cơ cấu lại thời hạn nợ cho khách hàng theo quy định. Trường hợp khách
hàng đang có nợ cơ cấu nhưng có nhu cầu vay mới để sản xuất, kinh doanh hoặc khắc
phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh thì tổ chức tín dụng căn cứ vào tính khả thi,
hiệu quả của dự án, phương án sản xuất kinh doanh của khách hàng để xem xét cho
vay mới, mà không phụ thuộc vào dư nợ cũ chưa trả đúng hạn.
Điểm mới thứ mười mà Nghị định 41/2010/NĐ-CP đã đạt được là bố trí một
chương độc lập quy định trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân. Quyết định 67/1999/QĐ-TTg mới chỉ nêu được trách nhiệm của Ngân hàng
Nhà nước và Bộ Tài chính trong việc triển khai thực hiện thì tại chương III,
Nghị định 41/2010/NĐ-CP quy định cụ thể trách nhiệm của từng cơ quan, tổ chức,
cá nhân như Ngân hàng Nhà nước, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Tài
chính, Bộ kế hoạch và đầu tư, Bộ Công thương, Bộ Tư pháp, Bộ Y tế, Bộ Tài
nguyên và môi trường, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố, các tổ chức chính trị -
xã hội, các tổ chức tín dụng và khách hàng vay vốn. Việc quy định cụ thể trách
nhiệm của các tổ chức, cá nhân như Nghị định 41/2010/NĐ-CP tạo điều kiện cho
các chủ thể này chủ động trong việc triển khai các chức năng, nhiệm vụ được
phân công, phân công nhiệm vụ rõ ràng, tạo cơ chế phối hợp giữa các đơn vị và
tránh sự bất cập, chồng chéo giữa các cơ quan, đồng thời, hạn chế việc phải
trình Thủ tướng Chính phủ quyết định đối với các trường hợp cụ thể. Nếu các cơ
quan, tổ chức, cá nhân đều triển khai kịp thời và thực hiện nghiêm túc, đúng chức
năng, nhiệm vụ, trách nhiệm quy định tại Nghị định này, chắc chắn các chính sách
phát triển nông nghiệp, nông thôn sẽ nhanh chóng đi vào cuộc sống và phát huy
hiệu quả.
Nghị định 41/2010/NĐ-CP có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1/6/2010. Chỉ
sau khi Nghị định có hiệu lực 14 ngày, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Thông tư
số 14/2010/TT-NHNN ngày 14/6/2010 hướng dẫn đầy đủ, chi tiết các điểm mới nói
trên của Nghị định 41/2010/NĐ-CP.
Có thể còn một vài điểm khác biệt nhỏ giữa Nghị định 41/2010/NĐ-CP và
Quyết định 67/1999/QĐ-TTg nữa, song, có thể khẳng định Nghị định 41/2010/NĐ-CP
đã phát huy và kế thừa thành công những thành tựu của Quyết định
67/1999/QĐ-TTg. Quan trọng hơn, Nghị định 41/2010/NĐ-CP đã khắc phục những bất
cập của Quyết định 67/1999/QĐ-TTg và mạnh dạn đưa ra những chính sách, ưu đãi mới
đối với các đối tượng tham gia tín dụng phát triển nông nghiệp, nông thôn. Bên
cạnh việc tạo ra một hành lang pháp lý hoàn thiện hơn, Nghị định đã tạo nhiều
ưu đãi giúp khu vực nông nghiệp, nông thôn và nông dân tiếp cận dễ dàng hơn với
nguồn vốn tín dụng ngân hàng, được bảo đảm bởi các chính sách hỗ trợ khi gặp rủi
ro do nguyên nhân khách quan, bất khả kháng, đồng thời, tạo điều kiện cho sự
phát triển, tăng trưởng mạnh mẽ tín dụng ngân hàng cho lĩnh vực nông nghiệp,
nông thôn.
Triển khai thực hiện tốt Nghị định 41/2010/NĐ-CP về chính sách tín dụng
phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn chắc chắn sẽ góp phần không nhỏ đối với
sự phát triển của khu vực nông nghiệp, nông thôn, nông dân, đóng góp nhiều hơn
nữa cho sự phát triển kinh tế đất nước, góp phần xóa đói giảm nghèo, đảm bảo an
sinh xã hội và là địa bàn khẳng định lợi thế của Việt Nam trong hợp tác kinh tế
quốc tế.
2.3.2 Tóm tắt nội dung nghị định 41:
Điều 2. Đối tượng
áp dụng
1. Các tổ chức được thực hiện cho vay phục vụ phát triển
nông nghiệp, nông thôn bao gồm:
a) Các tổ chức tín dụng được tổ chức và hoạt động theo
quy định của Luật Các tổ chức tín dụng;
b) Các tổ chức tài chính quy mô nhỏ, thực hiện việc cho
vay các món tiền nhỏ cho người nghèo và các đối tượng khác trong lĩnh vực nông
nghiệp, nông thôn theo quy định của pháp luật;
c) Các ngân hàng, tổ chức tài chính được Chính phủ thành
lập để thực hiện việc cho vay theo chính sách của Nhà nước.
2. Tổ chức, cá nhân được vay vốn theo quy định tại Nghị
định này để phục vụ sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng trong lĩnh vực nông nghiệp,
nông thôn bao gồm:
a) Hộ gia đình, hộ kinh doanh trên địa bàn nông
thôn;
b) Cá nhân;
c) Chủ trang trại;
d) Các hợp tác xã, tổ hợp
tác trên địa bàn nông thôn;
đ) Các tổ chức và cá nhân
cung ứng các dịch vụ phục vụ trồng trọt, chăn nuôi, dịch vụ tiêu thụ và xuất khẩu
sản phẩm nông, lâm, diêm nghiệp và thuỷ sản;
e) Các doanh nghiệp chế biến
các sản phẩm từ nông nghiệp hoặc kinh doanh trong các lĩnh vực công nghiệp,
thương mại, cung ứng dịch vụ phi nông nghiệp, có cơ sở sản xuất, kinh doanh
trên địa bàn nông thôn.
Điều 4. Các lĩnh vực cho
vay phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn
1. Cho vay các chi phí sản
xuất trong lĩnh vực nông, lâm, ngư, diêm nghiệp;
2. Cho vay phát triển ngành nghề tại nông thôn;
3. Cho vay đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng ở nông thôn;
4. Cho vay chế biến, tiêu thụ các sản phẩm nông, lâm, thủy
sản và muối;
5. Cho vay để kinh doanh các sản phẩm, dịch vụ phục vụ
nông, lâm, diêm nghiệp và thuỷ sản;
6. Cho vay phục vụ sản xuất công nghiệp, thương mại và
cung ứng các dịch vụ phi nông nghiệp trên địa bàn nông thôn;
7. Cho vay tiêu dùng nhằm nâng cao đời sống nhân dân ở
nông thôn;
8. Cho vay theo các chương trình kinh tế của Chính phủ.
Điều 8. Cơ chế bảo
đảm tiền vay
1. Tổ chức tín dụng được xem xét cho khách hàng vay trên
cơ sở có bảo đảm hoặc không có bảo đảm bằng tài sản theo quy định hiện hành.
2. Tổ chức tín dụng quy định rõ mức cho vay không có bảo
đảm bằng tài sản, điều kiện và thủ tục cho vay không có bảo đảm bằng tài sản đối
với từng đối tượng khách hàng, phù hợp với các quy định của pháp luật hiện hành
về cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng.
Riêng đối với các đối tượng khách hàng là cá nhân, hộ
gia đình, hộ sản xuất kinh doanh ở nông thôn, các hợp tác xã, chủ trang trại, tổ
chức tín dụng được xem xét cho vay không có bảo đảm bằng tài sản theo các mức
như sau:
a) Tối đa đến 50 triệu đồng đối với đối tượng là các cá
nhân, hộ sản xuất nông, lâm, ngư, diêm nghiệp;
b) Tối đa đến 200 triệu đồng đối với các hộ kinh doanh,
sản xuất ngành nghề hoặc làm dịch vụ phục vụ nông nghiệp, nông thôn;
c) Tối đa đến 500 triệu đồng đối với đối tượng là các hợp
tác xã, chủ trang trại.
3. Tổ chức tín dụng xem xét cho vay tín chấp đối với các
đối tượng khách hàng là cá nhân, hộ gia đình trên cơ sở có bảo đảm của các tổ
chức chính trị - xã hội ở nông thôn theo quy định hiện hành. Tổ chức chính trị
- xã hội phối hợp và được thực hiện toàn bộ hoặc một số khâu của nghiệp vụ tín
dụng sau khi đã thoả thuận với tổ chức tín dụng cho vay.
4. Căn cứ vào đặc thù cho vay đối với lĩnh vực nông nghiệp,
nông thôn, các tổ chức tín dụng hướng dẫn cụ thể quy trình thực hiện bảo đảm tiền
vay đối với khách hàng vay vốn theo hướng đơn giản và thuận tiện.
5. Các đối tượng khách hàng được vay không có tài sản bảo
đảm quy định tại khoản 2 Điều này phải nộp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (đối
với các đối tượng được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất) hoặc được Ủy ban
nhân dân cấp xã xác nhận chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và đất
không có tranh chấp. Khách hàng chỉ được sử dụng giấy xác nhận chưa được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất và đất không có tranh chấp để vay tại một tổ chức
tín dụng và chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc sử dụng giấy xác nhận trên
để vay không có tài sản bảo đảm theo quy định tại Nghị định này.
6. Các cá nhân, hộ gia đình khi đăng ký giao dịch bảo đảm
để vay vốn tại tổ chức tín dụng để sản xuất kinh doanh thì không phải nộp lệ
phí đăng ký giao dịch bảo đảm cho cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm theo thẩm
quyền.
Điều 9. Thời hạn
cho vay
Căn cứ vào thời gian luân chuyển vốn, khả năng hoàn vốn
của dự án, phương án sản xuất kinh doanh của khách hàng, tổ chức tín dụng và
khách hàng thoả thuận thời hạn vay vốn phù hợp.
Điều 11. Lãi suất
cho vay
1. Các ngân hàng, tổ chức tài chính thực hiện cho vay
các đối tượng chính sách, các chương trình kinh tế ở nông thôn theo chỉ định của
Chính phủ thì thực hiện việc cho vay theo mức lãi suất do Chính phủ quy định.
2. Lãi suất cho vay phục vụ phát triển nông nghiệp, nông
thôn của các tổ chức tín dụng được thực hiện theo cơ chế tín dụng thương mại hiện
hành.
3. Những khoản cho vay đối
với nông nghiệp, nông thôn của các tổ chức tín dụng do Chính phủ hoặc các tổ chức
cá nhân khác uỷ thác thì mức lãi suất được thực hiện theo quy định của Chính phủ
hoặc theo thoả thuận với bên uỷ thác.
4. Các tổ chức tài chính quy mô nhỏ thực hiện việc cho
vay theo lãi suất thoả thuận với khách hàng, phù hợp với quy định của pháp luật.
Điều 12. Trích lập
dự phòng rủi ro
1. Tổ chức tín dụng cho vay đối với nông nghiệp, nông
thôn thực hiện trích lập dự phòng rủi ro theo thực tế phát sinh. Trong năm, các
tổ chức tín dụng thực hiện trích lập dự phòng rủi ro theo thực tế rủi ro phát
sinh năm trước, cuối năm điều chỉnh theo thực tế rủi ro phát sinh trong năm,
không phân biệt khoản vay đó có tài sản hay không có tài sản đảm bảo.
2. Ngân hàng Nhà nước phối hợp với Bộ Tài chính hướng dẫn
cụ thể việc trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro đối với cho vay trong lĩnh vực
nông nghiệp, nông thôn.
Điều 13. Xử lý rủi
ro
1. Tổ chức tín dụng thực hiện xử lý rủi ro cho vay nông
nghiệp, nông thôn từ nguồn dự phòng rủi ro của tổ chức tín dụng.
2. Trường hợp phát sinh rủi ro trên diện rộng do các
nguyên nhân khách quan, vượt quá khả năng của tổ chức tín dụng, Nhà nước xem
xét có chính sách cụ thể đối với từng trường hợp.
Điều 14. Bảo hiểm
trong nông nghiệp
Tổ chức tín dụng có chính
sách miễn, giảm lãi đối với khách hàng tham gia mua bảo hiểm trong nông nghiệp
theo chính sách khách hàng của mình để khuyến khích khách hàng vay vốn tham gia
mua bảo hiểm trong nông nghiệp nhằm hạn chế rủi ro đối với tổ chức tín dụng.
2.3.3. Kết quả triển khai nghị định
41:
Trong 3 năm triển khai Nghị định 41, tín dụng đầu tư phát triển đối với
lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn đã đạt được mức tăng trưởng mạnh mẽ. Tính đến
cuối năm 2012, dư nợ cho vay đạt 561.533 tỷ đồng, tăng 12,52% so với
31/12/2011, chiếm tỷ trọng 18% trên tổng dư nợ trong nền kinh tế. Đến
30/9/2013, dư nợ cho vay nông nghiệp nông thôn (chưa bao gồm NHCSXH) đạt
646.706 tỷ đồng, tăng 15,17% so với cuối năm 2012, chiếm tỷ trọng 19,58% dư nợ
của nền kinh tế. Nếu so với năm 2009, dư nợ tín dụng đối với lĩnh vực này đã
tăng gấp 2,2 lần. Tốc độ tăng bình quân của dư nợ tín dụng cho vay nông nghiệp,
nông thôn trong 3 năm (2010 - 2012) là 24,5%.
Việc đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp nông thôn theo Nghị định 41 đã thu
hút sự tham gia tích cực của các TCTD. Trong số này, NHNo&PTNT (Agribank)
là ngân hàng đi đầu và có tỷ trọng cho vay đối với lĩnh vực này ở mức cao nhất
(khoảng 70% trên tổng dư nợ). Tiếp theo là Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam,
Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng TMCP Đầu tư Việt Nam. Bên cạnh
đó, các Ngân hàng TMCP Phát triển Mê Kông, Bưu điện - Liên Việt có mức tăng trưởng
tín dụng và tỷ trọng vốn đầu tư cho nông nghiệp nông thôn tương đương 40% tổng
dư nợ cho vay, tăng gấp 4 lần so với trước khi triển khai Nghị định 41).
Cơ cấu tín dụng cho phát triển nông nghiệp, nông thôn tương đối toàn diện,
bao gồm tất cả các khâu của quá trình sản xuất nông nghiệp, xây dựng nông thôn
mới và nâng cao đời sống nhân dân. Bước đầu, hoạt động tín dụng ngân hàng đã kết
hợp với các chính sách khác của Nhà nước như chính sách khuyến nông, khuyến
công để tạo nên hiệu quả tổng hợp của chương trình.
Để khuyến khích hệ thống Ngân hàng tập trung vốn cho vay lĩnh vực nông
nghiệp, nông thôn, NHNN đã triển khai một số cơ chế chính sách ưu đãi đối với
các tổ chức tín dụng cho vay lĩnh vực này: Áp dụng tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng
VND ở mức thấp đối với các tổ chức tín dụng có tỷ trọng dư nợ cho vay nông nghiệp
nông thôn cao; tái cấp vốn cho tổ chức tín dụng cho vay phát triển nông nghiệp,
nông thôn phù hợp với mục tiêu, biện pháp điều hành chính sách tiền tệ; các khoản
cho vay tái cấp vốn đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn được NHNN ưu tiên về
thời hạn và nguồn vốn cho vay so với các lĩnh vực khác. NHNN cũng đề nghị các
TCTD xem xét, điều chỉnh, giảm lãi suất cho vay nhằm chia sẻ khó khăn với doanh
nghiệp và người dân. Hiện nay các mức lãi suất cho vay đối với lĩnh vực nông
nghiệp, nông thôn thấp hơn so với lãi suất cho vay thông thường.
Nghị định 41 còn tạo ra cơ chế phối hợp kế đồng bộ giữa chính sách tín
dụng với các chính sách khác đối với nông nghiệp, nông thôn nhằm đảm bảo sự
phát triển ổn định, bền vững cho lĩnh vực này. Việc thí điểm bảo hiểm sản phẩm
nông nghiệp như tôm, thủy sản đang được triển khai tại một số địa phương góp phần
giúp người dân yên tâm sản xuất. Giải pháp cho vay nông nghiệp nông thôn có bảo
hiểm lãi suất cũng đang được Ngân hàng TMCP Bưu điện - Liên Việt áp dụng. Hồ
sơ, thủ tục cho vay nông nghiệp, nông thôn cũng từng bước được cải tiến tạo điều
kiện thuận lợi cho khách hàng vay vốn. Trong đó, hình thức Sổ vay vốn được
khách hàng đánh giá cao về tính phù hợp và giản tiện phù hợp với đối tượng vay
vốn.
Mặc dù, đã đạt được những kết quả bước đầu đáng khích lệ, tín dụng
phát triển nông nghiệp, nông thôn còn nhiều khó khăn, thách thức. Bao gồm nguồn
vốn cho vay hạn chế; khả năng huy động vốn trên địa bàn nông nghiệp, nông thôn
còn thấp; TCTD còn gặp nhiều khó khăn về nguồn vốn để xử lý rủi ro, hỗ trợ
khách hàng; tính liên kế trong sản xuất nông nghiệp còn thiếu chặt chẽ; tiến độ
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận trang trại và xác nhận
giấy tờ vay vốn ở các địa phương còn chậm, ảnh hưởng tới tiến độ thẩm định, quyết
định cho vay vốn, tới việc sản xuất, kinh doanh mang nhiều tính thời vụ ở địa
bàn nông thôn…
Để việc triển khai Nghị định 41 và các chủ trương, chính sách về nông
nghiệp, nông thôn trở nên thiết thực hiệu quả hơn, bên cạnh những nỗ lực của
ngành Ngân hàng trong việc tạo nguồn vốn để đầu tư cho lĩnh vực này, cần có sự
chủ động, tích cực hơn của các Bộ, ngành, chính quyền địa phương để tháo gỡ những
khó khăn về nguồn vốn, về thủ tục, về việc hoàn thiện cơ sở pháp lý, đặc biệt
là việc triển khai và ban hành các văn bản pháp luật về đất đai; tăng cường
tính liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, hỗ trợ thông tin…
Phó Thống đốc Nguyễn Đồng Tiến khẳng định, phát triển nông
nghiệp, nông thôn là một chủ trương lớn có tính chiến lược được Đảng và Nhà nước
ta đặc biệt quan tâm. Đối với ngành Ngân hàng, nông nghiệp, nông thôn là lĩnh vực
được sự ưu tiên, hỗ trợ trong nhiều năm nay. Sau 3 năm triển khai Nghị định 41,
hoạt động tín dụng ngân hàng đã đạt được những kết quả quan trọng. Tuy vậy, trước
những khó khăn ngày càng lớn mà ngành nông nghiệp phải đương đầu như thiên tai,
bệnh dịch, vấn đề con giống, thị trường tiêu thụ sản phẩm…, ngành Ngân hàng phải
rà soát để có thể đề ra các biện pháp tích cực hơn và phù hợp hơn với cơ chế thị
trường, phù hợp hơn với chính sách của Đảng và Nhà nước.
Kết luận Hội nghị, Phó Thống đốc chỉ đạo các đơn vị chức năng thuộc
NHNN tập trung nghiên cứu, đề xuất chỉnh sửa, bổ sung, hoàn thiện cơ chế chính
sách tín dụng phục vụ nông nghiệp nông thôn, trong đó có một số điều của Nghị định
41 và các văn bản liên quan; tạo điều kiện cho các TCTD chủ động hơn trong hoạt
động đầu tư tín dụng cho nông nghiệp nông thôn. Việc sơ kết triển khai thực hiện
Nghị định mới chỉ là những đánh giá bước đầu, do đó các kiến nghị về việc sửa đổi
bổ sung Nghị định 41 và các giải pháp được đề xuất cần được nghiên cứu kỹ lưỡng
hơn.
*Hạn chế còn tồn tại: Tín dụng nông nghiệp, nông thôn:
Nông dân vẫn rất khó vay
- Chưa đầy 4% số hộ được vay vốn
Theo số liệu điều tra tiếp cận nguồn lực hộ nông thôn Việt Nam (VARHS)
giai đoạn 2006 - 2012, có 50% số hộ nông dân được khảo sát có vay nợ, trong đó,
60% ghi nhận có vay của ngân hàng (NH). Tuy nhiên, quy mô vay rất thấp, chỉ chiếm
13,6% trong tổng lượng vay. Nhu cầu cao, điều kiện cho vay được nới rộng nhưng
vẫn khó tiếp cận vốn, tái diễn tình trạng vay "tín dụng đen” đang là rào cản
lớn với tín dụng khu vực nông nghiệp, nông thôn.
Theo ông Lại Xuân Môn, Phó Chủ tịch Hội Nông dân Việt Nam, mặc dù Đảng,
Nhà nước đã có nhiều chủ trương, cơ chế, chính sách về tín dụng, trong đó có
Nghị định 41 để khai thông dòng tín dụng về nông thôn nhưng đến nay, dư nợ NH
thông qua tín dụng của Nghị định 41 mới đạt khoảng 300.000 tỷ đồng. Đây là con
số quá ít so với 70% người dân sống bằng nghề nông. Nói rõ về con số vay ít ỏi,
ông Môn cho biết, sau 2 tháng Nghị định 41 ra đời, Hội Nông dân đã ký thỏa thuận
với NHNN, sau 4 tháng ký thỏa thuận với Agribank và đến giờ này, tín dụng dành
cho nông dân thông qua Hội Nông dân mới là 13.000 tỷ đồng, trong khi hộ nông
dân trong cả nước là 14 triệu hộ. Như vậy, chưa đến 4% số hộ nông dân được vay
vốn trong khi bình thường khoảng 50% hoặc hơn có nhu cầu vay vốn. Nguyên nhân từ
đâu? Ông Môn phân tích, rủi ro nông nghiệp lớn, quy mô cho vay vẫn nhỏ, lẻ. Dù
điều kiện vay vốn cho nông dân đã không cần thế chấp nhưng nông dân vẫn phải có
sổ đỏ mới vay được. Về DN thì lĩnh vực nông nghiệp không hấp dẫn, lợi nhuận ít,
rủi ro cao. Thế nên họ cũng ít đầu tư vào nông nghiệp.
Ông Nguyễn Tiến Đông, Phó Tổng giám đốc NH Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn Việt Nam (Agribank) giải thích, đối tượng vay nông nghiệp thường bị
tác động nhiều bởi điều kiện tự nhiên, rủi ro không chỉ đơn thuần từ trình độ
năng lực quản lý của chính hộ vay, mà còn từ khách quan như hạn hán thiên tai,
lũ lụt, dịch bệnh… Nông dân là đối tượng vay bị tổn tương lớn nhất. Món vay nhỏ,
chi phí cao, rủi ro lớn, nếu không có lượng chi nhánh, lượng cán bộ gần dân,
sát dân, muốn cho vay tới hộ dân rất khó, vì tín dụng chủ yếu là lòng tin,
không hoàn toàn là vấn đề thế chấp. Thế chấp chỉ là điều kiện cần, không phải
là điều kiện đủ. Do đó, một số NH thường cho vay đoạn giữa và cuối là thu mua
và chế biến sản phẩm.
Đồng thời, việc NH giữ sổ đỏ là để tránh việc nhiều tổ chức tín dụng
cho vay cùng 1 hộ mà quá khả năng trả nợ thì rủi ro cho cả hộ dân lẫn NH. Có số
đỏ, UBND xã, phường có thể xác nhận diện tích đất sản xuất mà hộ nông dân đang
sử dụng. Nhưng thực tế một số cấp ủy địa phương không quan tâm, không xác nhận
để người dân có thể vay NH.
Ông Nguyễn Viết Mạnh, Vụ trưởng Vụ Tín dụng NHNN thì cho rằng, Chính phủ,
NHNN luôn chỉ đạo quyết liệt để dành nguồn vốn tín dụng cho nông nghiệp, nông
thôn. Thanh khoản NH cũng rất dồi dào, nhưng vốn vẫn ra từ từ, đó là do khả
năng hấp thụ vốn yếu của nền kinh tế.
Không chỉ nông dân, DN cũng khó tiếp cận nguồn vốn vay, phải hoạt động
cầm chừng vì thiếu vốn. Trong khi đó, thương lái nước ngoài lại tới tận hộ thu
mua nông sản. Thừa nhận thực trạng này, ông Vũ Văn Tám, Thứ trưởng Bộ
NN&PTNT cho rằng, đa số DN trong lĩnh vực nông nghiệp chưa đủ khả năng, tận
dụng cơ hội của thị trường để tổ chức liên kết, đồng hành với nông dân sản xuất.
Thực tế nông sản của chúng ta xuất thô nhiều, điều này chỉ phù hợp với thị trường
gần như Trung Quốc, khả năng tiếp cận thị trường ở xa, tiềm năng lớn còn hạn chế.
DN Việt cũng chưa chủ động tiếp cận thị trường. Mặt khác còn có những rào cản kỹ
thuật ở các thị trường, gây khó khăn cho việc thâm nhập của nông sản Việt.
Tuy nhiên, một phần cũng do quy mô DN nông nghiệp còn nhỏ. Một thời
gian dài chúng ta tổ chức theo các khâu sản xuất, trong đó dịch vụ chỉ là khâu
đầu vào, hoặc đầu ra. Rất ít DN đủ năng lực tổ chức toàn bộ quy trình sản xuất
từ đầu vào đến đầu ra sản phẩm.
-
Hiểm họa tín dụng đen
NH
ngại cho vay tới hộ nông dân vì vốn giải ngân nhỏ, chi phí giám sát lớn, người
dân vẫn vướng mắc cơ chế, thủ tục cho vay phức tạp. Khó tiếp cận tín dụng chính
thức, tất yếu họ tìm đến tín dụng đen.
Bình
về câu chuyện này, ông Mạnh cho rằng, điểm đầu tiên với tín dụng NH là phải có
địa chỉ, mục tiêu cụ thể, và phải tính đến tập quán của người dân. Nhu cầu chi
tiêu của hộ nông dân có những việc không đưa vào đối tượng vay được, thu nhập
thì theo thời vụ nhưng chi tiêu theo hàng ngày và những việc lặt vặt không thể
đến NH vay vốn, vì vậy xuất hiện thói quen vay lãi ngoài, vừa quen, vừa kịp thời.
Đồng
quan điểm, ông Đông nhận định, chính từ những nhu cầu vay không tên, để chi
dùng hàng ngày, nhỏ lẻ, không được hợp thức hóa với chính sách tín dụng đã dẫn
tới việc người dân vay mượn nhau đơn giản hơn, lãi suất cao hơn, đây là tín dụng
đen. Một số vùng thấy việc cho vay lãi suất cao hơn như vậy thì ham và hình
thành hụi, họ…
Để
khắc phục, Agribank đã cử 7 đoàn cán bộ tiến hành nghiên cứu hộ nông dân để làm
thế nào cho vay theo hạn mức tín dụng chi tiêu tổng hợp. Vì nông dân thu nhập
theo hai vụ chính nhưng nhu cầu chi tiêu của họ cũng không khác gì thành thị
nên cần phải có hạn mức tín dụng tổng hợp để vừa sức với nông dân.
Thời
gian tới, các chuyên gia cho rằng, việc tiếp cận vốn sẽ được điều chỉnh theo hướng
nâng mức vay vốn không phải thế chấp đối với hộ nông dân cũng như các trang trại,
HTX. Đặc biệt, tiến tới quy hoạch từng nhóm ngành, từng vùng sản xuất cụ thể,
có sự liên kết để tín dụng được bền vững, thậm chí không cần thế chấp cho vay.
Đồng thời, ngoài chính sách chung, phải có những chương trình riêng cho những sản
phẩm chủ lực như cá tra, lúa gạo, cà phê. Riêng với thủy sản, nên nghiên cứu đề
ra chương trình vay vốn đặc biệt ưu đãi dành riêng cho ngư dân với thủ tục đơn
giản.
-
Giải pháp cả trước mắt lẫn lâu dài
Không
đồng tình quan điểm người dân không có kế hoạch vay vốn, ông Lại Xuân Môn cho rằng,
vẫn còn nhiều rào cản khiến người dân khó tiếp cận vốn ngân hàng. Thứ nhất, rủi
ro nông nghiệp rất lớn, tác động, ảnh hưởng của ngoại cảnh đến 50-60%. Thứ hai
là quy mô cho vay nhỏ, lẻ. Thứ ba là dù điều kiện vay vốn cho nông dân thậm chí
không cần thế chấp nhưng nông dân vẫn phải có sổ đỏ mới vay được. Trong khi đó
doanh nghiệp có được kêu gọi, hút về nông thôn để đầu tư họ cũng không mặn mà.
Do vậy nông dân càng khó khăn trong việc vay vốn ngân hàng.
Tại
tọa đàm rất nhiều ý kiến đề xuất giải pháp gỡ khó cho tín dụng nông thôn. Vẫn
theo ông Nguyễn Tiến Đông, nông dân thường có những nhu cầu vay không tên, để
chi dùng hàng ngày, nhỏ lẻ, không được hợp thức hóa đối với chính sách tín dụng.
Vì vậy, người dân vay mượn nhau đơn giản hơn, lãi suất cao hơn, đây là tín dụng
đen. Do đó, cần nghiên cứu cho vay hợp với nhu cầu của người dân nhưng tổ chức
tín dụng cũng quản được. Ông Nguyễn Viết Mạnh lại đề nghị, phải có rất nhiều
chính sách, hỗ trợ vốn, hỗ trợ sau thu hoạch, hỗ trợ vùng nghèo, người nghèo,
huyện nghèo… Và lượng tín dụng để cho người dân vay phải lên tới 622.000 tỷ mới
phù hợp với đóng góp của nông nghiệp vào GDP. Đặc biệt, chúng ta phải phát triển
các hợp tác xã để các đơn vị này đứng ra hỗ trợ nông dân. Phải sản xuất hàng
hóa thì mới hấp thụ được vốn ngân hàng chứ quy mô nhỏ lẻ, manh mún thì không thể
vay một số tiền lớn được.
Nhiều
ý kiến đề nghị, từ nay cho đến cuối năm, hệ thống NH sẽ tiếp tục triển khai các
chính sách tín dụng trọng lĩnh vực nông nghiệp, nông dân đã được quy định. Đồng
thời sẽ tiếp tục thực hiện giãn, hoãn nợ; giảm một phần lãi đối với những khoản
nợ xấu…Bên cạnh đó, Ngân hàng Nhà nước cũng cần nghiên cứu, phối hợp với các cơ
quan liên quan đề xuất cho vay một số chương trình mới, phù hợp với quy trình sản
xuất của bà con.
2.3.4. Hoạt động phát triển tín dụng
nông nghiệp nông thôn của các tổ chức tài chính:
a, Ngân hàng thương mại:
Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam cho biết, trong vài năm trở lại đây, tín dụng cho nông nghiệp, nông
thôn liên tục tăng trưởng. Tốc độ tăng bình quân trong 5 năm kể từ khi có Nghị
quyết 26 về tam nông (năm 2008) đạt khoảng 18%.
Riêng trong 3 năm
từ 2010 - 2012 tăng trưởng tín dụng bình quân đạt gần 25%, cao hơn mức tăng trưởng
chung của nền kinh tế.
Đại diện Ngân
hàng Nhà nước cũng cho biết, nếu như trước khi triển khai Nghị định 41, dư nợ
cho vay nông nghiệp, nông thôn mới chỉ đạt trên 292.919 tỷ đồng thì đến hết quý
II/2013 con số này đã tăng gấp gần 2,2 lần và đạt 621.584 tỷ đồng.
Tín dụng ngân
hàng cho lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn đã từng bước được tập trung và đi sâu
vào những khu vực, ngành hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam như nông, lâm, thủy
sản với tỷ trọng ngày càng tăng vào những mặt hàng đem lại nguồn thu ngoại tệ lớn
cho đất nước. Nếu như trước năm 2010 dư nợ đối với các mặt hàng này chỉ chiếm
khoảng trên 10% tổng dư nợ cho vay nông nghiệp nông thôn thì nay tỷ trọng này
luôn duy trì ở mức trên 20%.
Những kết quả
trên đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu các ngành hàng này với
mức tăng bình quân của giai đoạn 2010-2012 đạt trên 30%. Riêng trong năm 2012,
tín dụng ngân hàng đã góp phần đưa thành tích xuất khẩu mặt hàng nông, lâm thủy
sản của Việt Nam đạt mức kỷ lục 27,54 tỷ USD.
Cũng theo Ngân
hàng Nhà nước, từ năm 2012, Ngân hàng Nhà nước đã quy định trần lãi suất cho
vay đối với lĩnh vực này (đến nay chỉ còn 9%/năm). Tính từ đầu năm đến nay, lãi
suất cho vay đã giảm từ 2-3%/năm.
Khuyến khích và hỗ
trợ các tổ chức tín dụng có tỷ trọng cho vay nông nghiệp nông thôn lớn (từ 40%
trở lên) thông qua hình thức tái cấp vốn và đã thực hiện giảm tỷ lệ dự trữ bắt
buộc đối với 6 ngân hàng nhằm mở rộng nguồn vốn cho vay và có điều kiện hạ lãi
suất huy động đầu vào, từ đó hạ lãi suất cho vay đối với lĩnh vực nông nghiệp,
nông thôn.
Nguồn vốn tín dụng
ngân hàng còn góp phần thực hiện tốt các chương trình mục tiêu quốc gia như giảm
nghèo bền vững, nước sạch vệ sinh môi trường, tạo việc làm... các chương trình
trên hiện đang được thực hiện tại Ngân hàng Chính sách xã hội.
Để nguồn vốn tín
dụng ngân hàng tiếp tục được khơi thông đến đúng nơi và ngành ngân hàng có cơ sở
nghiên cứu đưa ra các sản phẩm tín dụng phù hợp đối với lĩnh vực nông nghiệp
nông thôn, ngành ngân hàng đề xuất một số công việc cần sớm được triển khai
như: tích cực thực hiện tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo Đề án nâng cao giá trị
gia tăng và phát triển bền vững ngành nông nghiệp; tiếp tục nhân rộng các mô
hình tiêu thụ nông sản và cung ứng vật tư nông nghiệp như một số mô hình trồng
lúa và nuôi cá tra tại đồng bằng sông Cửu Long.
Ngành ngân hàng
cũng đề xuất, chính sách tiêu thụ nông sản hàng hóa thông qua hợp đồng theo Quyết
định số 80/2002/QĐ-TTg ngày 24/6/2002 của Thủ tướng Chính phủ cần sớm được bổ
sung, sửa đổi để tạo sự liên kết bền vững giữa người sản xuất và cơ sở chế biến
làm cơ sở để ngành ngân hàng thực hiện cho vay theo chuỗi liên kết ngành hàng từ
các khâu sản xuất-thu mua-chế biến-xuất khẩu.
AGRIBANK
Theo báo cáo của
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (Agribank), tính đến 30/11/2013,
dư nợ cho vay đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn của Ngân hàng này đạt
370.287 tỷ đồng, tăng 49.378 tỷ đồng (tăng 15,4%) so với cuối năm 2012, chiếm tỷ
lệ 70,2% tổng dư nợ cho vay.
Dư nợ cho vay các
chương trình tăng trưởng tốt như: Cho vay thu mua, chế biến, xuất khẩu thủy sản
đạt 26.908 tỷ đồng, tăng 12,4%; cho vay lương thực đạt 16.382 tỷ đồng, tăng
3,1%; cho vay chăn nuôi 72.416 tỷ đồng, tăng 21,9%; cho vay thu mua, chế biến,
xuất khẩu cà phê đạt 10.335 tỷ đồng, tăng 4,2%.
Ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn (Agribank) cho biết, tính đến ngày 31/12/2013, tổng
nguồn vốn của Ngân hàng đạt 634.505 tỷ đồng (cả VND và ngoại tệ quy đổi).
Trong đó, vốn huy
động thị trường I (từ tổ chức và dân cư) đạt 626.390 tỷ đồng, tăng 86.012 tỷ đồng
(tăng 15,9%) so với đầu năm. Tổng dư nợ cho vay (cả ngoại tệ quy đổi VND) đạt
530.600 tỷ đồng, tăng 50.147 tỷ đồng (10,4%).
Trong đó, dư nợ
cho vay nông nghiệp, nông thôn đạt 378.985 tỷ đồng, tăng 58.910 tỷ đồng
(18,4%), cao hơn mức tăng dư nợ bình quân, chiếm tỷ lệ 71,4% tổng dư nợ cho
vay.
Agribank cho biết,
trong năm 2014 Ngân hàng phấn đấu nguồn vốn huy động tăng từ 11%-13%; dư nợ cho
vay nền kinh tế tăng từ 10%-12%. Để đạt được được mục tiêu trên, Ngân hàng sẽ tập
trung vốn cho vay nông nghiệp, nông thôn, cho vay xuất khẩu, cho vay doanh nghiệp
nhỏ và vừa, cho vay tiêu dùng, đảm bảo tỷ trọng cho vay nông nghiệp nông thôn
trên 70%.
Bên cạnh đó,
tranh thủ nguồn vốn vay tài trợ thương mại, để sử dụng có hiệu quả cho vay xuất
nhập khẩu, tăng thu dịch vụ; mở rộng phát triển sản phẩm dịch vụ phù hợp với điều
kiện của từng vùng, khu vực.
Ngoài ra, sẽ
nghiên cứu triển khai gói sản phẩm tín dụng dựa trên các chuỗi liên kết từ sản
xuất đến tiêu thụ sản phẩm nhằm nâng cao hiệu quả và tiết giảm chi phí như: Cho
vay chuỗi khép kín người nuôi-thu mua-chế biến- xuất khẩu thủy sản; cho vay
liên kết giữa nhà cung ứng vật tư nguyên liệu đầu vào-nhà sản xuất với người
tiêu thụ sản phẩm phù hợp từng đối tượng khách hàng.
Ngân hàng cũng sẽ
tập trung thu hồi nợ xấu, kiểm soát chặt chẽ việc cho vay mới, đặc biệt là đối
với các lĩnh vực ngoài nông nghiệp, nông thôn đối với các chi nhánh trên địa
bàn Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh.
b, Quỹ tín dụng
nhân dân:
Thực
hiện chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn của Chính
phủ, thời gian qua các Quỹ tín dụng nhân dân(QTDND) trên địa bàn tỉnh đã tích
cực đưa vốn hỗ trợ các thành viên sản xuất nông nghiệp nông thôn, thông qua
nhiều phương thức như cho vay trực tiếp, cho vay thông qua các tổ chức đoàn
thể, xã hội với lãi suất ưu đãi.
6 tháng đầu năm 2013, các Quỹ tín dụng nhân
dân đã cho vay phục vụ sản xuất nông nghiệp đạt hơn 20,6 tỷ đồng, chiếm tỷ
trọng 41% tổng dư nợ cho vay, tăng 2,66 lần so với năm 2000. Ngoài ra các khoản
vay nuôi trồng thủy sản chiếm 6%, cho vay phục vụ mục đích thương nghiệp chiếm
25,8% và cho vay phục vụ cá nhân và cộng đồng chiếm 27,2% tổng dư nợ. Với lợi
thế là tổ chức hoạt động trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng ngân hàng nhưng gần
gũi với bà con nông dân nên thủ tục cho vay của các QTDND đơn giản, do đó đã
thu hút ngày càng nhiều thành viên tham gia để mở rộng sản xuất kinh doanh, đầu
tư chăn nuôi, phát triển ngành nghề, cải tạo vườn tạp tạo nguồn thu nhập kinh
tế ổn định cho gia đình.
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP
Gia nhập WTO đã đem đến những cơ hội lớn cho
ngành nông nghiệpViệt Nam: Thị trường cho những mặt hàng xuất khẩu truyền thống
sẽ được mở rộng, cơ sở pháp lý sẽ được thay đổi theo hướng ổn định và minh bạch
hơn, các nhà sản xuất Việt Nam có cơ hội thâm nhập vào thị trường nông sản rộng
lớn của cộng đồng thương mại quốc tế một cách bình đẳng, tạo cơ hội cho nông
dân Việt Nam thay đổi tư duy, tiếp cận với các kiến thức sản xuất tiên tiến,
thu hút được các nguồn vốn đầu tư của nước ngoài,…
Tuy nhiên, song hành với các cơ hội đó, nền nông
nghiệp Việt Nam cũng phải đối mặt với những thách thức to lớn do hội nhập mang
lại, đó là cạnh tranh về chất lượng, giá cả, thị trường các sản phẩm nông
nghiệp ngày càng tăng; sự bảo hộ của Nhà nước trong lĩnh vực này phải giảm do
thực hiện các cam kết WTO. Thêm vào đó, trong thời gian tới còn phải chịu ảnh
hưởng mạnh của sự biến đổi khí hậu toàn cầu…
Để vượt qua những thách thức của quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế, góp phần thực hiện thắng lợi đường lối kinh tế của Đảng
về chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, nông thôn trong thời kỳ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, vấn đề đặt ra ở đây là phải xác định được những nhân tố cơ bản
thúc đẩy nông nghiệp, nông thôn phát triển. Thực tế cũng như theo kinh nghiệm
một số nước cho thấy, trong bối cảnh hội nhập như hiện nay, các yếu tố quan
trọng thúc đẩy nông nghiệp, nông thôn phát triển, đó là:
- Vấn đề công nghệ sinh học cần phải được đẩy
mạnh nghiên cứu để tạo ra được những con giống, cây trồng mang lại năng suất
chất lượng cao.
- Thị trường tiêu thụ nông, sản phẩm trong
nước và quốc tế cần được mở rộng
- Vấn đề về đất đai, liên quan đến quyền sử
dụng đất, thuê đất tạo khả năng tích tụ đất lớn và tạo sự yên tâm cho người sản
xuất.
- Thuế và trợ cấp xã hội.
- Cơ sở hạ tầng nông nghiệp, nông thôn
- Vấn đề y tế, giáo dục và bảo hiểm xã hội ở
nông thôn
- Vai trò quản lý của các cấp chính quyền địa
phương…
Vậy, hoạt động tín dụng nông thôn cần phải có
những thay đổi tích cực để góp phần hạn chế những thách thức của hội nhập, theo
đó cần hướng vào đầu tư các yếu tố tạo nên sự phát triển nông nghiệp, nông
thôn.
Các giải pháp cụ thể
1. Tiếp tục củng cố và nâng cao năng lực tài
chính, quản trị rủi ro của các định chế tài chính cho vay lĩnh vực nông nghiệp
nông thôn: Nhất là NHNo&PTNT, QTDND, NHCSXH. Cụ thể,
cần tăng vốn điều lệ cho các định chế này, có các chính sách hỗ trợ nhất định
để tạo điều kiện cho các định chế tài chính này có thể mở rộng hơn nữa mạng
lưới cho vay ở các vùng sâu, vùng xa nhằm tăng cường tính bền vững trong hoạt
động của các định chế tài chính nông thôn. Đối với các hợp tác xã tín dụng cần
phải hoàn thiện công tác quản lý tài chính, nâng cao năng lực xây dựng kế hoạch
kinh doanh phù hợp với điều kiện thực tế của mình.
2. Tiếp tục đổi mới trong hoạt động cho vay của
các định chế tài chính trong lĩnh vực nông nghiệp nông thôn cho phù hợp với yêu
cầu hội nhập và đặc điểm của nông thôn Việt Nam
- Xác định mức lãi suất phù hợp: người nghèo –
đối tượng phục vụ chính của các chương trình tín dụng nông thôn thường được cho
là không đủ sức trả lãi theo mức lãi suất thị trường. Do vậy, lãi suất cho vay
thường được trợ cấp rất nhiều (thấp hơn lãi suất phổ biến trên thị trường), và
thường được ấn định ở mức thấp hơn mức lạm phát, khiến cho lãi suất thực tế có
giá trị âm. Xét về mặt lý thuyết, ở mức lãi suất thực âm, nhu cầu tín dụng sẽ
trở nên vô hạn, cung không thể đáp ứng cầu, nguồn vốn cung ứng sẽ bị hạn chế.
Và sự chênh lệch giữa giá áp đặt giả tạo và giá thực tạo ra động lực tham nhũng
của cơ chế xin cho. Do đó, tín dụng có thể sẽ không đến được đúng đối tượng cần
phục vụ, mà lọt vào tay những người có thế lực hoặc có quan hệ tốt, và những
người này lại đem tín dụng giá rẻ cho vay lại với lãi suất cao hơn. Điều đó đã
bóp méo ý nghĩa của các nguồn tín dụng giá rẻ. Mặt khác, người được vay vốn giá
rẻ có xu hướng xem tín dụng là một hình thức trợ cấp nên dễ nảy sinh tâm lý
chây ì, không có trách nhiệm đối với việc hoàn trả vốn. Và nếu thực tế trên xảy
ra thì các chương trình tín dụng sẽ không thể tiếp tục hoạt động nếu không được
bơm thêm vốn từ ngân sách nhà nước.
Ngoài ra, kinh nghiệm tại nhiều nước cho thấy
tín dụng được trợ cấp không phải là chìa khóa cho thành công của tài chính ở cơ
sở. Nhu cầu chính của người nghèo, là dễ dàng và nhanh chóng vay được được vốn,
và chi phí giao dịch thấp (thủ tục đơn giản và nhanh chóng nhận được tiền), chứ
không phải tín dụng giá rẻ. Do vậy, để bảo đảm khả năng phát triển bền vững về
dài hạn, một chương trình tín dụng cần phải áp dụng lãi suất đủ để trang trải
chi phí hoạt động cũng như bảo vệ giá trị thực của nguồn vốn.
- Đa dạng hoá các đối tượng phục vụ của hệ
thống ngân hàng: Các số liệu thống kê cho thấy, mặc dù nợ quá hạn của nông dân
thường dưới mức 5%, thấp hơn nhiều so với con số của các doanh nghiệp, các hợp
tác xã, các cơ sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp. Thế nhưng các định chế tài
chính chính thức không nhiệt tình lắm trong việc cho các nông hộ vay. Một trong
các lý do là các nông hộ thiếu những dự án nông nghiệp lớn, mà chủ yếu là vay
tiền để đầu tư sản xuất manh mún, như nuôi lợn, gà, trồng rau. Vì vậy các ngân
hàng cần phải thay đổi quan điểm “chỉ phục vụ khách hàng lớn”. Nhu cầu vay vốn
của nông dân dù lớn dù nhỏ cũng nên được đáp ứng như nhau mới đảm bảo tính công
bằng trong công tác tín dụng nông thôn nhằm góp phần tăng thu nhập và giảm đói
nghèo ở nông thôn. Hiệu quả của đồng vốn có thể được giải quyết bằng cách hoàn
thiện việc thẩm định dự án, đánh giá mức rủi ro của người đi vay.
- Phân bổ nguồn vốn đầu tư tín dụng nông thôn
một cách hợp lý về thời hạn, cơ cấu vốn đầu tư cũng như hạn mức vốn vay : cung
cấp vốn đảm bảo khai thác tiềm năng kinh tế tự nhiên của mỗi vùng, hình thành
các vùng chuyên canh lúa, vùng cây công nghiệp, cây ăn quả, vùng nuôi trồng và
khai thác thủy hải sản,… có giá trị kinh tế cao phục vụ cho tiêu dùng trong
nước và xuất khẩu. Bên cạnh việc tập trung vốn đầu tư vốn phát triển các ngành
nghề sản xuất, nông nghiệp, nông thôn, các định chế tài chính cũng cần xém xét
mở rộng đầu vào lĩnh vực nghiên cứu công nghệ sinh học, tạo ra giống, cây trồng
mới.
Ngoài ra, cần chú trọng cho vay đối với hộ sản
xuất, doanh nghiệp vừa và nhỏ gắn với các dự án kinh doanh có hiệu quả thuộc
các khu công nghiệp, cụm công nghiệp đã và đang được hình thành, tập trung
những ngành thương mại dịch vụ, chế biến thủy sản, cơ khí sản xuất vật liệu xây
dựng, dệt may…, đảm bảo cung cấp đủ vốn cho nhu cầu sản xuất kinh doanh của các
hộ sản xuất.
- Tiếp tục cải tiến phương thức cho vay vốn
của ngân hàng theo hướng giảm bớt các thủ tục phiền hà, bảo đảm hộ dân tiếp cận
được nguồn vốn tín dụng dễ dàng, thuận tiện, để hạn chế việc phải đi vay ngoài
với lãi suất cao. Ví dụ như đơn giản hoá và rút ngắn thời hạn thủ tục đăng ký
và cấp sổ đỏ xác nhận chủ quyền đất, cải tổ luật giao dịch bảo đảm, giảm bớt
quy định quản lý (nhất là những áp đặt về lãi suất) đối với các tổ chức tín
dụng.
3. Có chính sách thu hút và mở rộng qui mô hoạt
động của các tổ chức tài chính vi mô trong nước và quốc tế mở rộng cho vay hộ sản
xuất, hộ nghèo; tạo cầu nối giữa tín dụng chính thức và tín dụng phi chính thức: Việc
thu hút và mở rộng qui mô của các tổ chức tài chính vi mô, nhất là đối với các
tổ chức nước ngoài có ý nghĩa quan trọng trong việc tăng nguồn vốn cho phát
triển nông nghiệp, nông thôn. Mặt khác, nếu khai thác và phối hợp được thế mạnh
của hai khu vực này sẽ đảm bảo có được nhiều dòng tín dụng và có chất lượng cao
hơn cho người dân nông thôn, nhất là người nghèo. Khu vực chính thức (hệ thống
ngân hàng, QTDND, các tổ chức tài chính vi mô) có nguồn vốn dồi dào hơn và có
thể cho vay với lãi suất thấp; còn khu vực phi chính thức (quan hệ vay mượn gia
đình, bạn bè, người thân, hội, hụi…) có cơ chế hoạt động linh hoạt, nhanh nhạy.
Nhiều chương trình tín dụng nông thôn trên thế giới đã thành công nhờ biết phối
hợp cả hai khu vực trong việc cung cấp dịch vụ tài chính cho nông thôn.
4. Xác định hợp lý mức độ can thiệp của Chính
phủ trong các hoạt động tín dụng nông thôn nhằm thực hiện các cam kết quốc tế: Do thị trường tín dụng nông thôn còn chưa
phát triển, nên Chính phủ vẫn có vai trò can thiệp nhất định để hỗ trợ cho kinh
tế nông nghiệp, nông thôn. Trong những trường hợp đặc biệt như khắc phục hậu
quả thiên tai, hay tiến hành các chương trình ưu tiên phục vụ vùng sâu, vùng
xa, miền núi, hải đảo, vùng dân tộc thiểu số thì Chính phủ có thể can thiệp
trực tiếp. Tuy nhiên, can thiệp của Chính phủ không nhất thiết là phải cung cấp
tín dụng với số lượng nhiều và giá rẻ mà có dưới nhiều hình thức khác; ví dụ
như cung cấp vốn, hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng nông nghiệp, thực hiện các
chương trình thí điểm rồi từ đó nhân rộng ra, đào tạo cán bộ cho các tổ chức
tín dụng, hỗ trợ hoạt động của các tổ chức cho vay lưu động ở vùng khó khăn…
Những biện pháp can thiệp theo cách tiếp cận cũ như áp đặt lãi suất, hạn mức
cho vay… có tác động không tích cực đối với sự tăng trưởng của các tổ chức tín
dụng, và cản trở bước phát triển của thị trường tín dụng nông thôn.
5. Các giải pháp hỗ trợ khác
- Tăng cường sự chỉ đạo của các cấp chính
quyền địa phương trong việc hỗ trợ các hoạt động tín dụng trên địa bàn, như
tuyên truyền chính sách vay vốn đến từng hộ gia đình, hỗ trợ cho hoạt động của
các tổ cho vay lưu động của các ngân hàng. Ở những địa phương có trình độ dân
trí thấp, các tổ chức tín dụng chính thức ngoài việc cho vay nên có chủ trương
hướng dẫn người dân cách sử dụng đồng vốn hợp lý, vốn cho vay phải gắn kết với
các chương trình phát triển kinh tế của địa phương, giúp người dân xây dựng
phương án phù hợp để quản lý nợ và rủi ro tránh việc để người dân vay được tiền
nhưng không biết làm gì, mang bỏ ống hoặc đi uống rượu như đã xảy ở một số vùng
dân tộc thiểu số; tăng phạm vi phục vụ, và những dịch vụ phụ trợ: cần tập trung
hơn trong việc phục vụ những xã ở các vùng xa xôi hẻo lánh và miền núi, nơi có
tỉ lệ nghèo đói cao nhất. Tại nhiều địa phương, nông dân muốn vay vốn phải đi
rất xa, có khi phải mất gần nửa ngày mới đến trụ sở ngân hàng nhưng không biết
chắc là có vay được vốn hay không.
- Kêu gọi các tổ chức phi chính phủ, các tổ
chức tài chính quốc tế đầu tư vốn cho lĩnh vực cơ sở hạ tầng giao thông, viễn
thông ở các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa tạo điều kiện thuận lợi cho tiêu
thụ hàng nông sản, thực phẩm, và người dân ở vùng sâu, vùng xa có điều kiện
tiệp cận nguồn vốn ngân hàng và tiếp cận với sản phẩm, dịch vụ ngân hàng hiện
đại.
- Tạo ra một môi trường chính sách thuận lợi:
đảm bảo tính ổn định kinh tế vĩ mô, bãi bỏ (hoặc chí ít là hạn chế) những chính
sách quá thiên vị cho thành thị, tiến hành những cải cách tổng quát hơn đối với
khu vực tài chính. Hoàn thiện các thể chế luật pháp, nhất là luật đất đai, các
chính sách về các giao dịch tài chính.
Trên đây là những đánh giá cơ bản về thực
trạng tín dụng nông thôn hiện nay, làm cơ sở đề ra những giải pháp mang tính
định hướng phát triển tín dụng nông thôn, góp phần thực hiện thành công sự
nghiệp hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn và chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong
nông nghiệp
Comments
Post a Comment