Thực trạng FDI Việt Nam
MỞ ĐẦU
Đối với bất cứ một quốc
gia nào, dù là nước phát triển hay là đang phát triển thì để phát triển cần có
vốn để tiến hành hoạt động đầu tư, tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế. Nguồn
vốn để phát triển kinh tế có thể huy động được ở trong nước hoặc từ nước ngoài,
tuy nhiên nguồn vốn trong nước thường có hạn, nhất là đối với các nước đang
phát triển như Việt Nam (có tỷ lệ tích lũy thấp, nhu cầu đầu tư cao nên cần có
một số vốn để phát triển kinh tế). Vì vây, nguồn vốn đầu tư nước ngoài ngày
càng có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của mỗi quốc gia. Hoạt động
đầu tư nước ngoài là kênh huy động vốn lớn cho sự phát triển kinh tế, trên cả
giác độ vi mô lẫn vĩ mô. Trên giác độ vĩ mô, FDI tác động đến quá trình tăng
trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và phúc lợi xã hội cho con người, là
3 khía cạnh để đánh giá sự phát triển kinh tế của một quốc gia. Trên giác độ vi
mô, FDI có tác động mạnh mẽ đến năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong
nước… Đầu tư nước ngoài là nhân tố quan trọng và khẳng định vai trò của mình
trong sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam. Nguồn vốn này bao gồm đầu tư trực
tiếp (FDI) và đầu tư gián tiếp (FII). Trong khi FII có tác động kích thích thị
trường tài chính phát triển thì FDI có vai trò thúc đẩy sản xuất, bổ sung vốn
trong nước, tiếp thu công nghệ và bí quyết quản lý, tham gia mạng lưới sản xuất
toàn cầu, tăng số lượng việc làm và đào tạo nhân công, tăng nguồn thu cho ngân
sách.
Đánh giá đúng vị trí, vai
trò của đầu tư nước ngoài, Đại hội lần thứ IX của Đảng ta đã coi kinh tế có vốn
đầu tư nước ngoài là một thành phần kinh tế, là một bộ phận cấu thành của nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN, được khuyến khích phát triển, hướng vào
xuất khẩu, xây dựng kết cấu hạ tầng KT-XH, gắn liền thu hút công nghệ hiện đại,
tạo thêm nhiều việc làm và đề ra nhiệm vụ cải thiện nhanh môi trường kinh tế và
pháp lý để thu hút mạnh nguồn vốn đầu tư nước ngoài (chủ yếu là FDI) đối với
chiến lược phát triển KT-XH của đất nước.
I.Lý thuyết
chung về FDI
1.Khái
niệm, đặc điểm và các hình thức FDI
1.1 Khái niệm
Đây là hình thức đầu tư
do nhà đầu tư bỏ vốn để xây dựng hoặc mua một phần , thậm chí toàn bộ cơ sở
kinh doanh nước ngoài để làm chủ sở hữu toàn bộ hay một phần cơ sở đó. Trực
tiếp quản lý điều hành hoặc tham gia quản lý điều hành hoạt động đối với đối
tượng mà họ bỏ vốn đầu tư. Chịu trách nhiệm theo mức sở hữu về kết quả sản xuất
kinh doanh của cơ sở đó.
1.2 Đặc điểm
- Chủ đầu tư nước ngoài
phải góp một số vốn tối thiểu vào vốn pháp định, tuỳ theo luật đầu tư nước
ngoài của nước tiếp nhận đầu tư quy định. Quyền sở hữu vốn và quyền sử dụng vốn
gắn liền với chủ đầu tư.
- Quyền quản lý xí nghiệp
phụ thuộc vào mức độ góp vốn của mỗi bên. Với doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài
thì chủ đầu tư toàn quyền quản lý doanh nghiệp.
- Lợi nhuận nhà đầu tư
nước ngoài phụ thuộc vào kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh và được chia
theo tỷ lệ góp vốn.
- Đầu tư trực tiếp nước
ngoài được thực hiện thông qua việc thành lập doanh nghiệp mới, mua lại toàn bộ
hoặc một phần doanh nghiệp đang hoạt động hoặc sáp nhập các doanh nghiệp với
nhau.
- Đầu tư trực tiếp nước
ngoài không chỉ gắn liền với di chuyển vốn mà còn gắn với chuyển giao công
nghệ, chuyển giao kiến thức và kinh nghiệm quản lý, tạo ra thị trường mới cho
cả phía đầu tư và phía tiếp nhận đầu tư. Vốn FDI không chỉ bao gồm vốn đầu tư
ban đầu của chủ đầu tư dưới hình thức vốn pháp định mà nó còn bao gồm cả vốn
vay của doanh nghiệp để triển khai và mở rộng dự án cũng như vốn đầu tư trích
từ lợi nhuận thu được trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp.
- Đầu tư trực tiếp nước
ngoài hiện nay gắn liền với các hoạt động kinh doanh quốc tế của các công ty đa
quốc gia
- Vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài tạo ra một nguồn vốn dài hạn cho nước chủ nhà và ít chịu sự chi phối
của chính phủ cũng như các quan hệ chính trị giữa chủ đầu tư với chính phủ nước
tiếp nhận đầu tư.
1.3.Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài chủ yếu
-
Doanh nghiệp lien doanh: là doanh nghiệp được
thành lập ở nước chủ nhà giữa các bên nước chủ nhà và nước ngoài trong đó các
bên cùng góp vốn, cùng kinh doanh và cùng hưởng quyền lợi, nghĩa vụ theo tỷ lệ
góp vốn.
-
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là doanh
nghiệp thuộc sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài, do người nước ngoài thành lập
tại nước chủ nhà, tự quản lý và chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh..
-
Hợp đồng hợp tác kinh doanh
( hợp đồng BBC) là hình thức đầu tư được ký giữa các nhà đầu tư nhằm hợp tác
kinh doanh phân chia lợi nhuận, phân chia sản phẩm mà không thành lập pháp
nhân.
-
Hợp đồng xây dựng- kinh doanh – chuyển giao (hợp đồng BOT) là hình
thức đầu tư được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư để xây
dựng, kinh doanh công trình kết cấu hạ tầng trong một thời hạn nhất định, hết
thời hạn, nhà đầu tư chuyển giao không bồi hoàn công trình đó cho nước tiếp
nhận đầu tư.
-
Hợp đồng xây dựng – chuyển giao – kinh doanh (
hợp đồng BTO) cũng có đủ ba quá trình như hợp đồng trên nhưng có sự hoán đổi vị
trí ở hai quá trình sau, thời gian kinh doanh đủ để nhà đầu tư thu hồi vốn và
một phần lợi nhuận.
-
Hợp đồng xây dựng – chuyển
giao ( hợp đồng BT), sau khi xây dựng chính phủ sẽ tạo điều kiện cho nhà đầu tư
thực hiện các dự án khác để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận hoặc thanh toán cho
nhà đầu tư theo thoả thuận trong hợp đồng.
Ngoài ra, theo
mục tiêu của chu đầu tư,FDI còn được chia thành
-
Đầu tư theo chiều rộng: hình thức đầu tư mà chủ đầu tư có lợi thế
cạnh tranh trong việc sản xuất một loại sản phẩm nào đó ( lợi thế về công nghệ,
kỹ năng quản lý…) và chuyển sản phẩm này ra nước ngoài.
-
Đầu tư theo chiếu sâu: chủ đầu tư thường chú ý đến việc khai thác
nguồn tài nguyên, nguyên vật liệu dồi dào và lao động rẻ ở nước ngoài để sản
xuất các snr phẩm có thể thu nhập lại về nước mình hoặc xuất khẩu sang nước
khác
Căn cứ vào
chiến lược đầu tư, FDI có thể thực hiện theo hai hướng:
-
Đầu tư mới: là việc các chủ đầu tư thực hiện đầu tư ở nước ngoài
thông qua việc xây dựng các doanh nghiệp mới. Đây là kênh đầu tư truyền thống
của FDI và cũng là kênh chủ yếu để các nhà đầu tư của các nước phát triển đầu
tư vào các nước đang phát triển.
-
Mua lại và sát nhập: là hình thức khi các chủ đầu tư thông qua
việc mua lại và sát nhập các doanh nghiệp hiện có ở nước ngoài. Kênh này chủ
yếu ở các nước phát triển NICs ( các nước công nghiệp mới).
2. Vai
trò của FDI đối với nền kinh tế Việt Nam
Thứ nhất,
FDI bổ sung cho nguồn vốn trong nước.
Trong các lí luận về tăng trưởng kinh tế,
nhân tố vốn luôn được đề cập. Khi một nền kinh tế muốn tăng trưởng nhanh hơn,
nó cần nhiều vốn hơn nữa. Nếu vốn trong nước không đủ, nền kinh tế này sẽ muốn
có cả vốn từ nước ngoài, trong đó có vốn FDI.
Thứ hai,
FDI đẩy nhanh tiếp thu công nghệ và bí quyết quản lý.
Trong một số trường hợp, vốn cho tăng
trưởng dù thiếu vẫn có thể huy động được phần nào bằng “chính sách thắt lưng
buộc bụng”. Tuy nhiên, công nghệ và bí quyết quản lý thì không thể có được bằng
chính sách đó. Thu hút FDI từ các công ty đa quốc gia sẽ giúp một nước có cơ
hội tiếp thu công nghệ và bí quyết quản lý kinh doanh mà các công ty này đã
tích lũy và phát triển qua nhiều năm và bằng những khoản chi phí lớn. Tuy
nhiên, việc phổ biến các công nghệ và bí quyết quản lý đó ra cả nước thu hút
đầu tư còn phụ thuộc rất nhiều vào năng lực tiếp thu của đất nước.
Thứ ba, FDI
tạo nguồn thu ngân sách lớn.
Đối với nhiều nước đang phát triển, hoặc
đối với nhiều địa phương, thuế do các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nộp là
nguồn thu ngân sách quan trọng.
Thứ tư, FDI
góp phần tăng số lượng việc làm và đào tạo nhân công.
Vì một trong những mục đích của FDI là
khai thác các điều kiện để đạt được chi phí sản xuất thấp, nên doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài sẽ thuê mướn nhiều lao động địa phương. Thu nhập của một
bộ phận dân cư địa phương được cải thiện sẽ đóng góp tích cực vào tăng trưởng
kinh tế địa phương. Trong quá trình thuê mướn đó, đào tạo các kỹ năng nghề
nghiệp, mà trong nhiều trường hợp là mới mẻ và tiến bộ ở các nước đang phát
triển thu hút FDI, sẽ được xí nghiệp cung cấp. Điều này tạo ra một đội ngũ lao
động có kỹ năng cho nước thu hút FDI. Không chỉ có lao động thông thường, mà cả
các nhà chuyên môn địa phương cũng có cơ hội làm việc và được bồi dưỡng nghiệp
vụ ở các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
Thứ năm,
FDI thúc đẩy kinh tế trong nước tham gia mạng lưới sản xuất toàn cầu.
Khi thu hút FDI từ các công ty đa quốc
gia, không chỉ xí nghiệp có vốn đầu tư của công ty đa quốc gia, mà ngay cả các
xí nghiệp khác trong nước có quan hệ làm ăn với xí nghiệp đó cũng sẽ tham gia
quá trình phân công lao động khu vực. Chính vì vậy, nước thu hút đầu tư sẽ có
cơ hội tham gia mạng lưới sản xuất toàn cậu thuận lợi cho đẩy mạnh xuất khẩu.
3. Các
nhân tố ảnh hưởng đến thu hút FDI vào
Việt Nam
3.1. Những xu hướng vận động của dòng vốn FDI trên thế giới hiện
nay
Thứ nhất, dòng vốn FDI trên thế
giới ngày một gia tăng và chịu sự chi phối chủ yếu của các nước công
nghiệp phát triển:
Các
dòng vốn đầu tư tập trung vào một số ít nước. Chỉ tính riêng 10 quốc gia thu
hút vốn FDI lớn nhất đã chiếm tới 2/3 vốn FDI. Trong khi 100 nước nhận đầu tư
ít nhất chỉ chiếm có 1% vốn FDI thế giới. Dòng đầu tư lẫn nhau giữa các nước
phát triển là xu hướng vận động chỉ đạo của đầu tư quốc tế và là nhân tố chính
thúc đẩy quá trình toàn cầu hoá. Tính đến năm 1998, nguồn vốn FDI từ 39.000
công ty mẹ đầu tư qua 270.000 chi nhánh ở nước ngoài đã đạt mức 2.700 tỷ USD,
góp phần tạo ra 6% GDP của thế giới.
Thứ hai, đầu tư ra nước ngoài
dưới hình thức hợp nhất hoặc mua lại các chi nhánh công ty ở nước ngoài (Cross border M & A) đã bùng nổ trong những năm gần đây,
trở thành chiến lược hợp tác phát triển chính của các công ty xuyên quốc gia
(TNC).
Thứ ba, có sự thay đổi sâu sắc
trong lĩnh vực đầu tư trên thế giới.
Mục
tiêu chủ yếu của các chủ đầu tư là lợi nhuận. Do đó, động cơ truyền thống của
FDI những năm đầu thập kỷ 60 là chạy theo lao động rẻ để thu lợi nhuận và
những ngành sản xuất truyền thống thu hút nhiều lao động và khai khoáng chế
biến nông sản của công nghiệp chế tạo.
Tuy
nhiên, đối với các nước đang phát triển, đầu vào lĩnh vực sản xuất vật chất vẫn
là lĩnh vực chủ yếu, chiếm tới 70% tổng vốn FDI mặc dù tỷ trọng của nó có
xu hướng giảm dần.
Thứ tư, các nước Mỹ, Anh, Đức,
Pháp, Nhật Bản chi phối dòng vận động chính của vốn FDI (vào, ra) trên thế
giới.
Trong
nửa đầu thập kỷ 80, Mỹ và Anh là hai quốc gia đứng đầu thế giới trong xuất khẩu
vốn FDI. Từ năm 1986 đến đầu những năm 90, Nhật Bản là nước đứng đầu trong
xuất khẩu vốn với mức kỷ lục là 45 tỷ USD riêng trong năm 1991, nhưng quy mô
xuất khẩu vốn FDI giảm dần trong những năm gần đây, chỉ ở mức một nửa năm 1991.
Từ năm 1992 trở lại đây, Mỹ gia tăng nhanh trong việc xuất khẩu FDI ra nước
ngoài và trở thành nước đứng đầu thế giới trong xuất khẩu và nhập khẩu vốn FDI.
Nhật
Bản những năm gần đây đứng vị trí thứ tư trong các nước xuất khẩu FDI với quy
mô bình quân khoảng 25 tỷ USD/năm. Đầu tư của Nhật chủ yếu hướng vào Mỹ,
Đông và Đông Nam châu Á. Đặc biệt, để tăng cường lợi thế cạnh tranh quốc tế,
các chi nhánh "Thế hệ hai" ở nước ngoài của Nhật Bản đã xuất hiện.
Hiện nay có 47% chi nhánh Nhật ở Hồng Kông, 43% chi nhánh Nhật ở Xin-ga-po đã
thành lập các chi nhánh ở nước ngoài.
Thứ năm, các tập đoàn xuyên
quốc gia (TNC) đóng vai trò rất quan trọng trong đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài và đang đẩy mạnh quá trình đầu tư ra nước ngoài.
Hiện
nay, các TNC đang chi phối, kiểm soát phần lớn sản xuất, kinh doanh trên thế
giới. Khi nghiên cứu 100 TNC lớn nhất trên thế giới mà tất cả đều thuộc các
nước công nghiệp phát triển có thể thấy các TNC này chiếm tới một phần ba toàn
bộ nguồn vốn FDI của thế giới và tổng tài sản ở nước ngoài của chúng lên tới
1400 tỷ USD; sử dụng tới 72 triệu lao động, trong đó lao động ở nước ngoài là
12 triệu, chiếm tới 16%. Trong số đó, Mỹ có tới 32 TNC hoạt động trong các lĩnh
vực quan trọng như dầu khí, hoá chất, sắt thép, điện tử, thiết bị điện, ô tô,
máy bay, dược phẩm, dịch vụ ăn uống...
Thứ sáu, dòng vốn FDI đổ vào
các nước đang phát triển đang gia tăng mạnh mẽ, đặc biệt là các nước đang
phát triển ở châu Á.
Nguồn
vốn FDI vào các nước đang phát triển gia tăng cả về quy mô lẫn tốc độ dẫn đến
tỷ trọng thu hút vốn FDI của các nước này tăng nhanh. Từ năm 1990 trở lại
đây, các nước đang phát triển thu hút tới một phần ba tổng số vốn FDI thế giới,
riêng năm 1994 chiếm tới 37%. Tuy nhiên, vốn FDI phân bố rất không đồng đều
giữa các nước đang phát triển, mà chủ yếu tập trung vào một số nước và khu
vực. Chỉ tính riêng 10 nước và nền kinh tế thuộc các nền kinh tế đang phát triển
đã thu hút từ 60 đến 80% tổng nguồn vốn FDI đổ vào các nước đang phát triển
liên tục từ thập kỷ 80 trở lại đây. Điều đó chứng tỏ, vốn FDI chủ yếu tập trung
vào những nền kinh tế năng động, có nhịp tăng trưởng cao, ổn định, có môi
trường đầu tư thuận lợi, hấp dẫn, hứa hẹn lợi nhuận cao.
3.2. Môi trường đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
Môi
trường đầu tư nước ngoài là tổng hoà các yếu tố chính trị, kinh tế xã hội có
liên quan, tác động đến hoạt động đầu tư của các tổ chức, cá nhân nước
ngoài tại một nước. Có thể rút ra một số nhận xét cơ bản về môi trường đầu tư
trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam làm cơ sở cho việc tiếp tục đổi mới, hoàn
thiện trong thời gian tới.
Tình
hình quốc tế và khu vực có những chuyển biến tích cực có lợi cho việc phát
triển quan hệ kinh tế đối ngoại của Việt Nam nói chung và quan hệ đầu tư
trực tiếp với nước ngoài nói riêng.
Đối
với tình hình chính trị, Việt Nam có thuận lợi là các cơ quan quản lý nhà nước
ổn định trong thời gian dài, các chính sách luôn được cải tiến nhằm đảm
bảo quyền lợi cho chủ đầu tư nước ngoài. Trong luật đầu tư trực tiếp nước ngoài
tại Việt Nam, Nhà nước Việt Nam đã khẳng định: "Nhà nước Việt Nam cam kết
đảm bảo cho các nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, đảm bảo đối đãi công bằng
và thoả đáng...
Chính
sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài ở tầm vĩ mô ngày càng hấp dẫn các nhà đầu tư
nhưng các văn bản hướng dẫn thi hành luật và các nghị định triển khai ban
hành quá chậm và thiếu chi tiết khiến các cấp thừa hành hiểu khác nhau ở các
nơi gây khó khăn cho hoạt động của các chủ đầu tư.
Môi
trường chính trị, xã hội cho đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được đánh giá ổn
định, lành mạnh. Công cuộc đổi mới thu hút được thành tựu ngày càng lớn về
các mặt kinh tế, chính trị, xã hội, đối ngoại đã chứng minh bằng thực tế khả
năng Việt Nam vượt qua được thử thách và trở thành một đối tác quan trọng trong
khu vực không chỉ về chính trị mà cả về kinh tế. Nhưng Việt Nam hiện vẫn đang
trong quá trình đổi mới, hội nhập vào kinh tế thế giới và khu vực, không phải
tất cả các nước và nhà đầu tư nước ngoài đã hiểu và tin tưởng vào chính sách
khuyến khích đầu tư trực tiếp của nước ngoài tại Việt Nam.
Hệ
thống pháp luật về đầu tư nước ngoài tại Việt Nam tuy mới hình thành nên chưa
thật đầy đủ, đồng bộ, nhưng phần nào đã có sức hấp dẫn đối với các nhà đầu
tư nước ngoài. Luật đầu tư nước ngoài và nhiều văn bản pháp lý về đầu tư nước
ngoài đã được ban hành. Các quy định của pháp luật Việt Nam về lĩnh vực khuyến
khích đầu tư, các hình thức đầu tư nước ngoài và các biện pháp bảo đảm đầu tư
được xem là thông thoáng, hấp dẫn so với các nước khác.
Tuy
nhiên một số luật và quy định khác về kinh doanh liên quan nhiều đến đầu tư
nước ngoài chưa được ban hành như luật lao động, thương mại, kinh doanh
bất động sản, khai mỏ... một số chính sách chưa được xác định rõ nên chưa thể
chế hoá hoặc đã có chính sách làm cơ sở nhưng văn bản pháp quy ban hành chậm;
có tình trạng chồng chéo và mâu thuẫn giữa một số văn bản.
Các
hoạt động dịch vụ tư vấn đầu tư, xúc tiến đầu tư tại Việt Nam chưa đáp ứng được
yêu cầu.
Hệ
thống các công ty tư vấn dịch vụ đầu tư chưa được kiện toàn tăng cường về tổ
chức, cán bộ. Phần lớn các công ty này mới tập trung làm các dịch vụ đầu tư
thông thường như tổ chức, hướng dẫn đoàn khảo sát, làm thị thực cho khách...
chứ chưa đi sâu tư vấn dịch vụ các vấn đề kỹ thuật, đặc biệt là kỹ thuật xây
dựng dự án và thực hiện dự án sau giấy phép.
II.Thực trạng
vốn FDI ở Việt Nam từ năm 1988 đến nay
1.Theo
khối lượng vốn
Theo số liệu của Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế
hoạch và Đầu tư), tính đến ngày 20/9/2012, Việt Nam có 14.198 dự án FDI còn
hiệu lực, với tổng vốn đăng ký là hơn 208,1 tỷ USD. Trong đó, vốn thực hiện
khoảng hơn 96 tỷ USD, tức hơn 46% tổng vốn đăng ký. Quá trình thu hút FDI có
thể chia ra các giai đoạn sau:
-
Giai đoạn 1988 – 1990, Luật Đầu tư nước ngoài vừa mới ra đời. Vì vậy, việc thu
hút vốn FDI lúc này chưa tác động rõ rệt đến tình hình kinh tế - xã hội nước
ta. Cả 3 năm cộng lại FDI theo đăng kí mới đạt hơn 1,6 tỷ USD, vốn thực hiện
không đáng kể vì cần nhiều thủ tục cấp phép.
-
Giai đoạn 1991 – 1997 là những năm diễn ra làn sóng FDI thứ nhất.
Giai đoạn này đã thu hút được 2.130 dự án với vốn đăng ký là hơn 33,4 tỷ USD,
vốn thực hiện 12,34 tỷ USD. Trong đó, chỉ riêng năm 1997, vốn thực hiện đã đạt
3,115 tỷ USD, gấp gần 9,5 lần năm 1991.
-
Giai đoạn 1998 – 2004, do tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính khu
vực, nên trong số 3.968 dự án mới trong giai đoạn này, phần lớn có quy mô nhỏ.
Nếu năm 1998 có hơn 5 tỷ USD vốn đăng ký, thì sang đến năm 1999 đã giảm còn một
nửa với 2,565 tỷ USD và hồi phục dần đến năm 2004 là 4,547 tỷ USD.
-
Giai đoạn 2005 – 2009, bắt đầu một làn sóng FDI thứ hai vào
Việt Nam. Đỉnh điểm là năm 2008 khi vốn đăng ký đạt hơn 71 tỷ USD.
-
Giai đoạn từ năm 2010 đến nay, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính - kinh
tế toàn cầu, nên tình hình thu hút có chiều hướng giảm xuống.
Cụ
thể, năm 2011, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã đặt mục tiêu thu hút khoảng 20-21 tỷ
USD vốn FDI, nhưng kết quả là chỉ thu hút được 14,7 tỷ USD. Năm 2012, dự tính
thu hút 15-17 tỷ USD và đến thời điểm 15/12/2012 chỉ đạt 13 tỷ USD, bằng 84,7% cùng kỳ năm trước. Tuy nhiên, tính đến 20/02/2013 vốn FDI đạt 630,3 triệu USD,
bằng 38,1% cùng kỳ năm 2012, bao gồm: Vốn đăng ký của 99 dự án được cấp phép
mới đạt 532 triệu USD (bằng 81,8% số dự án và bằng 46,1% số vốn cùng kỳ năm
trước); vốn đăng ký bổ sung của 31 lượt dự án được cấp phép từ các năm trước
với 98,3 triệu USD. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện hai tháng đầu năm
ước tính đạt 1050 triệu USD, tăng 5% so với cùng kỳ năm 2012.
Biểu đồ
1: Tình hình thu hút FDI từ năm 1988-2012
|
![]() |
Nguồn: - Tổng Cục Thống
kê (từ năm 1988-2010)
- Cục Đầu tư nước ngoài
(năm 2011 và 2012)
|
2.Theo hình thức đầu
tư
Trong các hình thức đầu tư của vốn FDI,
chủ yếu vẫn là hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài với trên ¾ số dự án và trên 60% vốn đầu tư thuộc
hình thức này. Còn lại là hình thức liên doanh, hợp đồng hợp tác kinh doanh,
công ty cổ phần, hợp đồng hợp tác kinh doanh chiếm trên 21% số dự án và trên
37% vốn đầu tư, hình thức công ty mẹ con chiếm tỷ lệ nhỏ.
Bảng 1: FDI phân theo hình thức đầu tư (chỉ tính các dự án còn hiệu lực
đến ngày 30/6/2011)
STT
|
Hình thức đầu tư
|
Số dự án
|
Tổng vốn đầu tư
(USD)
|
Vốn điều lệ
(USD)
|
1.
|
100%
vốn nước ngoài
|
10.109
|
124.584.827.709
|
40.884.171.159
|
2.
|
Liên
doanh
|
2.378
|
61.477.030.739
|
17.758.434.079
|
3.
|
Hợp
đồng hợp tác kinh doanh
|
221
|
5.048.331.329
|
4.569.206.804
|
4.
|
Công
ty cổ phần
|
194
|
4.817.590.833
|
1.415.721.798
|
5.
|
Hợp
đồng BOT, BTO, BT…
|
11
|
3.598.809.913
|
903.095.869
|
6.
|
Công
ty mẹ con
|
1
|
98.008.000
|
82.958.000
|
|
Tổng cộng
|
12.914
|
199.624.598.523
|
65.613.587.709
|
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư
3.Theo
vùng, lãnh thổ
Thực tế cho thấy nơi nào cơ sở hạ tầng tốt, nguồn nhân lực
dồi dào và chất lượng cao, … thì nơi đó càng thu hút được nhiều nhà đầu tư nước
ngoài. Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam là nơi thu hút nhiều nhất vốn đầu tư
với điển hình là các tỉnh, thành phố: Bình Dương, TP Hồ Chí Minh, Đồng Nai,Bà
Rịa-Vũng Tàu, Long An.
Xét theo vùng thì vùng Đông Nam Bộ là vùng thu
hút được nhiều vốn ĐTNN nhất với tổng vốn đầu tư cấp mới và tăng thêm đạt trên
4,87 tỷ USD, chiếm 46,5% tổng vốn đầu tư đăng ký của cả nước. Đứng thứ 2 là
vùng Đồng bằng sông Hồng với tổng vốn đầu tư cấp mới và tăng thêm đạt 3,3 tỷ
USD, chiếm 31,4% tổng vốn đầu tư đăng ký. Tây Nguyên là vùng thu hút được ít
vốn FDI nhất, trong 10 tháng chỉ chiếm 0,6% tổng vốn đầu tư của cả nước.
Tính đến tháng 10 năm 2012, Bình Dương là địa
phương thu hút nhiều vốn ĐTNN nhất với 2,17 tỷ USD vốn đăng ký mới và tăng thêm
chiếm 20,7% tổng vốn đầu tư. TP Hồ Chí Minh đứng thứ 2 với tổng vốn đăng ký cấp
mới và tăng thêm là 1,12 tỷ USD, chiếm 10,8%. Hải Phòng đứng thứ 3 với 1,08 tỷ
USD vốn đăng ký cấp mới và tăng thêm. Tiếp theo là Đồng Nai, Hà Nội, Bắc Giang
với quy mô vốn đăng ký lần lượt là 1,06 tỷ USD; 984,6 triệu USD và 925 triệu
USD.
Biểu đồ
2: 10 tỉnh, thành phố thu hút vốn FDI lớn nhất trong 10 tháng năm 2012

Trong 2 tháng đầu năm
2013 nhà đầu tư nước ngoài đã đầu tư vào 17 tỉnh thành phố, trong đó Đồng Nai
là địa phương thu hút nhiều vốn ĐTNN nhất với 214,35 triệu USD vốn đăng ký mới
và tăng thêm chiếm 34% tổng vốn đầu tư. Bình Dương đứng thứ 2 với tổng vốn đăng
ký cấp mới và tăng thêm là 134,9 triệu USD, chiếm 21,4%. Hải Phòng đứng thứ 3
với tổng số vốn đăng ký cấp mới và tăng thêm 118 triệu USD.
4.Theo
lĩnh vực đầu tư
Theo số liệu của Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), FDI đăng
ký đầu tư vào nước ta vẫn tập trung chủ yếu vào lĩnh vực công nghiệp và xây
dựng.
Biểu đồ
3: Thu hút FDI phân theo khu vực

Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài
Trong 2 tháng đầu năm 2013 nhà đầu tư nước ngoài
đã đầu tư vào 14 ngành lĩnh vực, trong đó lĩnh vực Công nghiệp chế biến, chế
tạo là lĩnh vực thu hút được nhiều sự quan tâm của nhà đầu tư nước ngoài với 44
dự án đầu tư đăng ký mới, tổng số vốn cấp mới và tăng thêm là 408,9 triệu USD, chiếm 64,9% tổng vốn đầu tư đăng ký trong 2
tháng. Lĩnh vực Y tế và trợ giúp xã hội đứng thứ hai với tổng vốn đầu tư
đăng ký cấp mới và tăng thêm là 80 triệu USD, chiếm gần 12,7% tổng vốn đầu tư.
Đứng thứ 3 là lĩnh vực Kinh doanh bất động sản với 2 dự án đầu tư mới, tổng vốn
đầu tư đăng ký cấp mới và tăng thêm là 50,2 triệu USD.
5.Theo
đối tác đầu tư
Tính trong 10 tháng đầu năm 2012, đã có 52 quốc
gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư tại Việt Nam. Nhật Bản dẫn đầu với tổng
vốn đầu tư đăng ký cấp mới và tăng thêm 4,92 tỷ USD, chiếm 46,9% tổng vốn đầu
tư vào Việt Nam trong 10 tháng năm 2012; Hàn Quốc đứng vị trí thứ 2 với tổng
vốn đầu tư đăng ký cấp mới và tăng thêm là 936,7 triệu USD, chiếm 8,9% tổng vốn
đầu tư; Samoa đứng vị trí thứ 3 với tổng vốn đầu tư đăng ký cấp mới và
tăng thêm là 899,8 triệu USD, chiếm 8,6% tổng vốn đầu tư; Tiếp theo là
Singapore đứng ở vị trí thứ 4 với tổng vốn đăng ký cấp mới và tăng thêm khoảng
675,4 triệu USD, chiếm 6,4% tổng vốn đầu tư vào Việt Nam. BritishVirginIslands
đứng thứ 5 với tổng vốn đăng ký cấp mới và tăng thêm là 623,38 triệu USD, chiếm
5,9% tổng vốn đầu tư vào Việt Nam.
Biểu đồ 4: Các quốc
gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư tại Việt Nam lớn nhất trong 10 tháng năm
2012

Biểu đồ 5: Tỷ trọng
trong đầu tư FDI vào Việt Nam 10 tháng đầu năm 2012.

Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài
Tính
đến ngày 20 tháng 2 năm 2013 có 25 quốc gia và vùng lãnh thổ
có dự án đầu tư tại Việt Nam. Nhật Bản dẫn đầu với tổng vốn đầu tư đăng ký cấp
mới và tăng thêm là 258 triệu USD, chiếm 40,9% tổng vốn đầu tư vào Việt Nam;
Đài Loan đứng vị trí thứ hai với tổng vốn đầu tư đăng ký cấp mới và tăng thêm
là 81,4 triệu USD, chiếm 12,9% tổng vốn đầu tư; Singapore đứng vị trí thứ 3 với
tổng vốn đầu tư đăng ký cấp mới và tăng thêm là 56 triệu USD, chiếm 8,9% tổng
vốn đầu tư.
III.Thành tựu và
hạn chế
1. Thành
tựu
(1)
Nguồn vốn FDI đã góp phần quan trọng trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội để
thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tỷ trọng FDI trong tổng vốn đầu tư
toàn xã hội giai đoạn 1991 - 2000 đạt trung bình 30%, đến giai đoạn 2001 - 2005
là 16%, và giai đoạn 2006 - 2011 là khoảng 24,8%. Các doanh nghiệp FDI cũng
đóng góp khá ấn tượng vào GDP. Trong thời kỳ 2001 - 2005, khối này đóng góp
trung bình vào GDP là 14,5%, và tăng lên 20% trong năm 2010.
Biểu đồ 6: Tỷ trọng FDI trong tổng
vốn đầu tư xã hội (%)
|
![]() |
Nguồn số liệu: Tổng
cục Thống kê
|
(2) Doanh nghiệp FDI đã đóng góp
đáng kể vào thu ngân sách và các cân đối vĩ mô. Trong 5 năm 2006 - 2010, khối doanh
nghiệp này đã nộp ngân sách hơn 10,5 tỷ USD, tăng bình quân trên 20%/năm. Trong
năm 2011, con số này đạt 3,5 tỷ USD (không kể thu từ dầu thô).
(3) FDI đã góp phần chuyển dịch cơ
cấu kinh tế và nâng cao năng lực sản xuất công nghiệp. Nếu như trong năm 1988, nông nghiệp
chiếm đến 80% cơ cấu nền kinh tế, thì đến năm 2011 chỉ còn khoảng 22%. Thay vào
đó là sự tăng lên của khối ngành công nghiệp - dịch vụ với 78%, trong đó FDI
đóng góp không nhỏ vào sự tăng lên này.
Tốc độ tăng
trưởng công nghiệp của khu vực FDI cũng luôn cao hơn cả nước. Năm 1996, tốc độ
tăng trưởng công nghiệp của khu vực FDI là 21,7%, trong khi tốc độ tăng trưởng
công nghiệp cả nước là 14,2%. Năm 2000 tốc độ này tương ứng là 21,8% và 17,5%.
Năm 2005 là 21,2% và 17,1%, năm 2010 là 17,2% và 14,7%.
Biểu đồ 7: Tỷ trọng
đóng góp của khu vực FDI trong GDP (%)
|
![]() |
Nguồn số liệu: Tổng
cục Thống kê
|
(4) Một đóng góp quan trọng và ấn
tượng nữa từ doanh nghiệp FDI là tăng kim ngạch xuất nhập khẩu. Khu vực FDI chiếm tỷ trọng ngày càng
cao trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Nếu như năm 1995, đóng góp của
khu vực này chỉ chiếm 27% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước (tính cả dầu thô),
thì đến giai đoạn 2006 - 2010 đã chiếm trung bình 55% tổng kim ngạch xuất khẩu.
Trong 9 tháng đầu năm nay, nếu tính cả dầu thô, doanh nghiệp FDI đã đạt kim
ngạch xuất khẩu là 52,48 tỷ USD, xuất siêu hơn 8,1 tỷ USD.
(5) FDI đóng vai trò nổi bật,
tác động trực tiếp và gián tiếp đến hoạt động đổi mới công nghệ,chuyển giao công nghệ ở Việt Nam và
góp phần vào việc tăng cường cơ sở vật chất cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước. Nó đã thu hẹp khoảng cách phát triển trình độ công nghệ,
trình độ quản lý, trình độ tay nghề lao động giữa Việt Nam và quốc tế.
(6) FDI đã giải quyết việc làm,
tăng năng suất lao động, góp phần đào tạo và cải thiện nguồn nhân lực. Tính đến nay, khu vực FDI đã tạo
công ăn việc làm cho hơn 2 triệu lao động trực tiếp và một số lượng lớn lao
động gián tiếp khác. Trong đó, có hàng vạn kỹ sư, nhà quản lý trình độ cao, đội
ngũ công nhân lành nghề, với thu nhập ngày càng tăng. Không những thế, họ còn
được tiếp cận phương thức lao động, kinh doanh và quản lý tiên tiến.
(7) Tạo ra sự lan tỏa đến nền kinh
tế: Sự lan tỏa cả trước và sau, có nghĩa nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã có
đầu ra sản phẩm cung cấp cho doanh nghiệp FDI, đồng thời sản phẩm của doanh
nghiệp FDI cũng là đầu vào cho nhiều doanh nghiệp Việt Nam khác.
Bên cạnh những yếu tố có thể lượng
hóa được nêu trên, vai trò của FDI còn thể hiện thông qua những yếu tố không
lượng hóa được. Đó là: Tạo động lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp trong nước,
qua đó nâng cao được năng lực của các doanh nghiệp trong nước; Mở rộng quy mô
thị trường trong nước; Giới thiệu, đưa các sản phẩm hàng hóa có xuất xứ từ Việt
Nam vào thị trường quốc tế…
2. Hạn
chế
Tuy nhiên, bên cạnh những điểm sáng
mà FDI đem lại, nó cũng đã bộc lộ không ít khuyết điểm, vẫn chưa xứng tầm với
“sứ mệnh” được trao.
- Chất lượng của nguồn vốn chưa cao,
các dự án đầu tư công nghệ cao còn hạn chế. Việc chuyển giao công nghệ còn chậm,
thậm chí nhiều doanh nghiệp FDI còn sử dụng công nghệ lạc hậu, tiềm ẩn nguy cơ
gây ô nhiễm môi trường. Nhiều dự án thiên về việc sử dụng tài nguyên đất đai,
khoáng sản của đất nước.
- Nhiều doanh nghiệp báo cáo lỗ triền
miên, khiến câu hỏi về tính hiệu quả của doanh nghiệp đã được đặt ra. Phải chăng họ lỗ thật hay là lợi dụng
kẽ hở pháp luật để thực hiện hành vi "chuyển giá" mà báo chí đã tốn
nhiều giấy mực đề cập trong thời gian qua. Một số doanh nghiệp còn vi phạm pháp
luật về bảo vệ môi trường, vi phạm Bộ Luật Lao động… gây thiệt hại cho người
lao động và cho đất nước.
- Sau 25 năm thu hút FDI, Việt Nam
vẫn chỉ chiếm giá trị thấp trong chuỗi giá trị toàn cầu, nằm trong khâu thấp
nhất của giá trị sản phẩm.Mặc dù FDI luôn dẫn đầu về tốc độ tăng trưởng công nghiệp, nhưng tỷ lệ
nội địa hóa trong một số ngành, lĩnh vực vẫn còn khá thấp. Theo báo cáo “Chỉ số
năng lực cạnh tranh cấp tỉnh năm 2010” của Cơ quan Phát triển quốc tế Mỹ
(USAID) và Dự án Nâng cao năng lực cạnh tranh Việt Nam (VNCI) trên cơ sở khảo
sát 1.155 doanh nghiệp của 47 quốc gia, đại diện cho 21% số doanh nghiệp FDI
đang hoạt động, thì doanh nghiệp FDI tại Việt Nam có quy mô tương đối nhỏ và có
lợi nhuận thấp, chủ yếu làm thầu phụ cho các công ty đa quốc gia lớn hơn.
- Mục tiêu đặt ra trong thu hút FDI
không đạt được kết quả như mong muốn. Chẳng hạn, về mục tiêu lao động, mặc dù lao động trong
khu vực FDI tăng lên hàng năm, nhưng đến nay vẫn chỉ chiếm 4% tổng lực lượng
lao động của nền kinh tế. Hay đặt mục tiêu vào công nghiệp, nhưng các doanh
nghiệp FDI hiện nay mới tập trung vào nhóm ngành tận dụng lao động giá rẻ và
tận dụng chính sách bảo hộ công nghiệp của Nhà nước…
- Khả năng hấp thụ nguồn vốn còn
khiêm tốn, đồng
nghĩa với việc chưa tận dụng một cách có hiệu quả nguồn vốn này trong khi Việt
Nam đang có nhu cầu lớn về vốn. Ngay cả khi Việt Nam thu hút FDI lên đến hơn 70
tỷ USD trong năm 2008, thì vốn giải ngân cũng chỉ dừng lại ở mức 10-11 tỷ
USD/năm. Đó là do cơ sở hạ tầng lạc hậu, dịch vụ logistics kém phát triển,
nguồn nhân lực chưa đáp ứng được nhu cầu và ngành công nghiệp hỗ trợ còn kém phát
triển. Đây có thể là những yếu tố chính ảnh hưởng đến mức độ hấp thụ dòng vốn
FDI của nền kinh tế.
IV.Giải pháp thu
hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn FDI
1.Nhóm
giải pháp về luật pháp, chính sách:
- Sửa đổi chính sách ưu đãi đầu tư theo hướng lĩnh vực ưu đãi
đầu tư phải phù hợp với định hướng thu hút FDI.Cụ thể, cần xây dựng ưu đãi đầu tư cho từng nhóm doanh
nghiệp mục tiêu khác nhau. Đặc biệt, bên cạnh hệ thống ưu đãi tĩnh, cần có hệ
thống ưu đãi động (linh hoạt), hướng vào các nhà đầu tư mục tiêu. Chẳng hạn,
những nhà đầu tư thực hiện tốt các mục tiêu kỳ vọng có thể được gia hạn và tăng
thêm các điều kiện ưu đãi.
- Chính sách FDI của Việt Nam cần chuyển sang coi trọng cơ cấu
và chất lượng.Trước đây, Việt Nam đã chú trọng đến việc thu hút các dự án FDI
về lượng. Tuy nhiên, thu hút quá nhiều, mà không hiệu quả có thể dẫn đến các
bất ổn xã hội, làm trầm trọng thêm tình trạng quá tải cơ sở hạ tầng kinh tế. Vì
vậy, định hướng chung trong thu hút FDI là phải nhắm tới những ngành có công
nghệ hiện đại, có hàm lượng carbon thấp thân thiện với môi trường, phát triển
được nguồn nhân lực cao, lao động có kỹ năng. Thu hút FDI nhằm tăng cường liên
kết với doanh nghiệp trong nước, kết nối chuỗi giá trị toàn cầu.
- Hoàn thiện khung pháp lý:
Nhiều ý kiến nhận xét rằng, nội dung của Luật Đầu tư năm 2005 có nhiều điểm vừa
trùng lặp, vừa mâu thuẫn với nhiều luật khác. Vì vậy, cần xử lý các vấn đề
chồng chéo giữa Luật Đầu tư và các luật chuyên ngành khác. Luật Doanh nghiệp
năm 2005 cũng cần được sửa đổi cơ bản, bởi vì đã bộc lộ nhiều nhược điểm đang
cản trở hoạt động FDI.
- Sửa đổi
hoặc loại bỏ các điều kiện áp dụng ưu đãi đầu tư không phù hợp với cam kết của
Việt Nam với WTO và có giải pháp đảm bảo quyền lợi của nhà đầu tư liên quan.
- Ban
hành các ưu đãi khuyến khích đầu tư đối với các dự án xây dựng các công trình
phúc lợi (nhà ở, bệnh viện, trường học, văn hoá, thể thao) cho người lao động
làm việc trong các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh
tế, đảm bảo sự tương thích với các luật pháp hiện hành.
- Đề
xuất chính sách vận động, thu hút đầu tư đối với các tập đoàn đa quốc gia cũng
như có chính sách riêng đối với từng tập đoàn và mỗi nước thành viên EU, Hoa
Kỳ.
2.
Nhóm giải pháp về xúc tiến đầu tư
-
Tiếp
tục rà soát, cập nhật bổ sung danh mục kêu gọi đầu tư phù hợp với nhu cầu đầu
tư phát triển và quy hoạch phát triển ngành, địa phương.
-
Xây
dựng quy chế phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan xúc tiến đầu tư, xúc tiến
thương mại và xúc tiến du lịch các cấp, bao gồm cả trong nước lẫn đại diện ở
nước ngoài nhằm tạo sự đồng bộ và phối hợp nâng cao hiệu quả giữa các hoạt động
này. Đồng thời, thực hiện tốt Chương trình xúc tiến đầu tư quốc gia để đảm bảo
kinh phí cho vận động thu hút vốn FDI nhằm đẩy mạnh tuyên truyền, quảng bá hình
ảnh Việt Nam, kết hợp chặt chẽ các chuyến công tác của lãnh đạo cấp cao Đảng và
Nhà nước với các hoạt động xúc tiến đầu tư-thương mại-du lịch.
-
Tổ
chức hiệu quả các cuộc hội thảo ở trong nước và nước ngoài. Nâng cấp trang
thông tin điện tử về đầu tư trực tiếp nước ngoài cập nhật và chất lượng tài
liệu xúc tiến đầu tư bằng một số ngôn ngữ đáp ứng nhu cầu của số đông nhà đầu
tư (tiếng Anh, tiếng Nhật, tiếng Trung, tiếng Hàn, tiếng Nga)
-
Tăng
cường các đoàn vận động đầu tư theo phương thức làm việc trực tiếp với các tập
đoàn lớn, tại các địa bàn trọng điểm (Nhật Bản, Mỹ và EU) để kêu gọi đầu tư vào
các dự án lớn, quan trọng. Chủ động tiếp cận và hỗ trợ các nhà đầu tư tiềm năng
có nhu cầu đầu tư vào Việt Nam
3.Nhóm giải pháp về quy hoạch
-
Hoàn
chỉnh quy hoạch sử dụng đất, công bố rộng rãi quy hoạch, tạo điều kiện để đẩy
nhanh tiến độ giải phóng mặt bằng cho các dự án đầu tư.
-
Đẩy
nhanh tiến độ xây dựng và phê duyệt các quy hoạch còn thiếu; rà soát để định kỳ
bổ sung, điều chỉnh các quy hoạch đã lạc hậu nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho
nhà đầu tư trong việc xác định và xây dựng dự án.
-
Thu
hút FDI theo vùng, lãnh thổ phải gắn với ngành, lĩnh vực.Xác định cụ thể ngành,
lĩnh vực nào thì quy hoạch vào vùng nào để tập trung nguồn lực. Quy hoạch FDI
đặt trong quy hoạch tổng thể các nguồn lực chung của cả nước, đảm bảo gắn thu
hút FDI với phát triển nội lực và đảm bảo an ninh quốc phòng. Việc lựa chọn đưa
vào quy hoạch các lĩnh vực đầu tư, sản phẩm phải được thực hiện trên cơ sở khoa
học, vừa phù hợp với đòi hỏi của nhà đầu tư, vừa thích hợp với yêu cầu phát
triển của nền kinh tế.
4. Nhóm giải pháp về cải thiện cơ sở hạ tầng
-
Tiến
hành tổng rà soát, điểu chỉnh, phê duyệt và công bố các quy hoạch về kết cấu hạ
tầng đến năm 2020 làm cơ sở thu hút đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng. Tăng
cường công tác quy hoạch, thực thi các quy hoạch cũng như thu hút đầu tư vào
các công trình giao thông, năng lượng.
-
Tranh
thủ tối đa các nguồn lực để đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, đặc biệt là
nguồn vốn ngoài ngân sách nhà nước; ưu tiên các lĩnh vực cấp, thoát nước, vệ sinh
môi trường (xử lý chất thải rắn, nước thải.v.v.); hệ thống đường bộ cao tốc…
-
Khẩn
trương xây dựng và ban hành cơ chế khuyến khích các thành phần kinh tế ngoài
nhà nước tham gia phát triển các công trình kết cấu hạ tầng trong đó có các
công trình giao thông, cảng biển, các nhà máy điện độc lập
-
Mở
rộng hình thức cho thuê cảng biển, mở rộng đối tượng cho phép đầu tư dịch vụ
cảng biển, đặc biệt dịch vụ hậu cần (logistic) để tăng cường năng lực cạnh
tranh của hệ thống cảng biển Việt Nam; kêu gọi vốn đầu tư các cảng lớn của các
khu vực kinh tế
-
Tập
trung thu hút vốn đầu tư vào một số dự án thuộc lĩnh vực bưu chính-viễn thông
và công nghệ thông tin để phát triển các dịch vụ mới và phát triển hạ tầng mạng
5. Nhóm giải pháp về lao động, tiền lương:
-
Tăng
cường chất lượng nguồn nhân lực.Đã đến lúc Việt Nam cần phải đào tạo, bồi dưỡng
một đội ngũ nguồn nhân lực có chất lượng cao, gắn với các yêu cầu vị trí, công
việc của các nhà đầu tư, gắn với thực tiễn để khi ra làm việc thì các nhà đầu
tư nước ngoài ít phải đào tạo lại.
-
Chuyển
dịch cơ cấu lao động theo tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
-
Tiếp
tục hoàn thiện luật pháp, chính sách về lao động, tiền lương phù hợp trong tình
hình mới; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc chấp hành pháp luật về
lao động đối với người sử dụng lao động nhằm đảm bảo điều kiện làm việc và đời
sống cho người lao động
-
Nâng
cao hiểu biết pháp luật về lao động thông qua phổ biến, tuyên truyền và giáo
dục pháp luật cho người lao động, người sử dụng lao động trong các doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài để đảm bảo chính sách, pháp luật về lao động và tiền
lương được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc.
6 .Nhóm giải pháp cải
cách hành chính
-
Phân
cấp quản lý nhà nước đối với ĐTNN, đặc biệt trong việc phê duyệt, cấp Giấy
chứng nhận đầu tư, quản lý tốt các dự án ĐTNN, gắn với việc tăng cường hợp tác,
hỗ trợ, phối hợp hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát việc thi hành pháp luật
về đầu tư.
-
Nâng
cao trình độ của đội ngũ cán bộ, công chức nhằm đảm bảo thực hiện nhiệm vụ theo
quy định tại Luật Đầu tư và quy định mới về phân cấp quản lý đầu tư nước ngoài
-
Đơn giản hóa và công khai quy trình, thủ tục
hành chính đối với đầu tư nước ngoài, thực hiện cơ chế "một cửa"
trong việc giải quyết thủ tục đầu tư. Đảm bảo sự thống nhất, các quy trình, thủ
tục tại các địa phương, đồng thời, phù hợp với điều kiện cụ thể.
-
Xử
lý dứt điểm, kịp thời các vấn đề vướng mắc trong quá trình cấp phép, điều chỉnh
Giấy chứng nhận đầu tư.
-
Tăng
cường cơ chế phối hợp quản lý đầu tư nước ngoài giữa Trung ương và địa phương
và giữa các Bộ, ngành liên quan.
7. Một số biện pháp
khác
-
Kết
hợp chặt chẽ chính sách ĐTNN với các chính sách điều chỉnh ngành khác, bao gồm
chính sách đầu tư chung, chính sách khu công nghiệp theo hướng hình thành cụm
công nghiệp có tính chuyên môn hóa và chính sách phát triển kinh tế vùng. Các
chính sách này cần xây dựng trên nguyên tắc tiếp cận tổng thể quốc gia để tạo
tín hiệu chung dẫn dắt FDI tới ngành, vùng cần khuyến khích phát triển.
-
Hạn
chế các địa phương thu hút các ngành nghề như nhau, thiếu sự phối hợp và bổ
sung cho nhau giữa các ngành dẫn đến tình trạng phát triển tràn lan mà vẫn
thiên lệch, thiếu chuyên môn hóa.
-
Tiếp
tục cải thiện môi trường đầu tư thông thoáng, hấp dẫn, và đẩy mạnh giải ngân,
trong đó chú trọng đến các địa phương có tiềm năng, song chưa tạo được bước đột
phá trong thu hút FDI
KẾT LUẬN
Ngày nay, FDI đã trở thành một tất
yếu kinh tế trong điều kiện quốc tế hóa sản xuất và lưu thông. Không có một
quốc gia nào, dù lớn hay nhỏ, dù phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa hay
xã hội chủ nghĩa lại không cần đến nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài và
tất cả đều coi đó là nguồn lực quốc tế quan trọng cần khai thác để từng bước
hòa nhập vào cộng đồng quốc tế. Ngay cả những quốc gia có tiềm lực kinh tế mạnh
như Mỹ, Nhật dưới tác động mạnh mẽ của khoa học công nghệ hiện nay cũng không
thể tự mình giải quyết được những vấn đề kinh tế, xã hội đã và đang đặt ra. Chỉ
có con đường hợp tác, trong đó FDI là loại hình đầu tư hợp tác có hiệu quả.
Việt Nam là đất nước đang trên đà phát triển, vì vậy FDI có vai trò rất quan
trọng đối với phát triển kinh tế, xã hội.
Có thể thấy rằng, nguồn vốn FDI vẫn
sẽ giữ vi trò quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong
thiên niên kỉ mới. Quá trình thu hút đầu tư nước ngoài đã mang lại những kinh
nghiệm quý giá cho sự phát triển và làm cơ sở cho chính phủ hoạch định và hoàn
chỉnh cho chiến lược phát triển.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Ø Cổng thông tin của Bộ Kế hoạch, Đầu
tư và Phát triển http://mpi.gov.vn
Ø Trang web của Tổng cục Thống Kê
http://www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid=432&idmid=3
Ø Giáo trình Kinh tế Quốc tế, NXB Đại
học Kinh tế Quốc dân
Ø Thời báo kinh tế Việt Nam
MỤC LỤC
Comments
Post a Comment