Phân tích quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh về mối quan hệ giai cấp dân tộc. Tinh thần của mối quan hệ này có ý nghĩa gì đối với cuộc sống, học tập và làm việc sau này của bản thân
A\LỜI MỞ ĐẦU
Đầu thế kỉ XX, Việt Nam vừa chịu sự thống
trị của chế độ phong kiến,vừa bị bọn thực dân áp bức bóc lột, dân tộc không được
độc lập, nhân dân không được tự do, cuộc sống vô cùng lầm than. Với nhãn quan
chính trị sắc sảo của mình, Hồ Chí Minh nhận thấy không thể cứu nước và giải
phóng dân tộc theo cách cũ, như phong trào Cần Vương- đại biểu cho hệ tư tưởng
của giai cấp phong kiến, phong trào nông dân Yên Thế mà thực chất cũng theo
khuynh hướng tư tưởng phong kiến, cũng không thể theo con đường của Phan Bội Châu,
Phan Chu Trinh, Nguyễn Thái Học- đại biểu cho khuynh hướng tư tưởng tư sản dân
tộc.. Chính vì vậy, năm 1911, Người đã quyết chí ra đi tìm đường cứu nước, giải
phóng đồng bào. Trong quá trình hoạt động lí luận và thực tiễn ở nước ngoài, tư
tưởng Hồ Chí Minh cơ bản được hình thành.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm của sự kết
hợp chủ nghĩa yêu nước, truyền thống văn hóa, nhân nghĩa và thực tiễn cách mạng
Việt Nam với tinh hoa văn hóa nhân loại, được nâng lên tầm cao mới dưới ánh
sáng của chủ nghĩa Mác –Lênin. Tư tưởng Hồ Chí Minh đã được thực tiễn cách mạng
Việt Nam chứng minh là đúng đắn và đã trở thành nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam
cho hành động của Đảng ta và của cách mạng Việt Nam.Và một trong những nội dung
quan trọng xuyên suốt trong tư tưởng Hồ Chí Minh là mối quan hệ giữa vấn đề dân
tộc và vấn đề giai cấp. Bài tiều luận này nghiên cứu nhằm hiểu rõ hơn nội dung
trên cũng như ý nghĩa của nó đối với cuộc sống, học tập và việc làm sau này của
bản thân.
B\NỘI DUNG
I.Phân tích quan
điểm của Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp
1. Vấn đề dân tộc
và vấn đề giai cấp có mối quan hệ chặt chẽ với nhau
Trước Hồ Chí Minh đã có rất nhiều nhà nho
tiến bộ như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh cố gắng tổ chức và vận động cuộc đấu
tranh yêu nước chống Pháp theo mục tiêu và phương pháp mới. Song chủ trương cầu
ngoại viện, dùng bạo lực để khôi phục độc lập của Phan Bội Châu đã thất bại. Chủ
trương ỷ Pháp cầu tiến bộ, khai thông dân trí, nâng cao dân khí trên cơ sở đó
mà lần tính chuyện giải phóng của Phan Chu Trinh cũng không thành công. Đó là
những minh chứng rõ rệt cho sự sai lầm trong tư tưởng dân tộc tách rời giai cấp.
Hồ Chí Minh rất coi trọng vấn đề dân tộc, đề cao sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước,
nhưng người luôn đứng trên quan điểm giai cấp để nhận thức và giải quyết vấn đề
dân tộc. Sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc của Hồ
Chí Minh thể hiện:
Khẳng
định vai trò lịch sử của giai cấp công nhân và quyền lãnh đạo duy nhất của Đảng
Cộng sản trong quá trình cách mạng Việt Nam. Trên cơ sở phát triển sáng tạo
học thuyết Mác -Lênin về Đảng Cộng sản, Người cho rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam
là đảng của giai cấp công nhân và dân tộc Việt Nam. Thật vậy, trên thực tế, Hồ
Chí Minh đã xây dựng được một Đảng cách
mạng tiên phong, phù hợp với thực tiễn Việt Nam, gắn bó với nhân dân, với dân tộc,
một lòng một dạ phục vụ Tổ quốc, phụng sự nhân dân, được dân tộc thừa nhận là đội
tiên phong của mình. Ngay từ khi mới ra đời, Đảng do Hồ Chí Minh sáng lập đã
quy tụ được lực lượng và sức mạnh của toàn bộ giai cấp công nhân và cả dân tộc
Việt Nam. Chính vì thế, ngay từ khi mới ra đời, Đảng đã nắm ngọn cờ lãnh đạo
duy nhất đối với cách mạng Việt Nam. Từ đây chúng ta cũng đã phần nào nhận thức
được sự gắn kết chặt chẽ giữa dân tộc và giai cấp. Đảng Cộng sản Việt Nam mang
bản chất của giai cấp công nhân, là đội tiên phong của giai cấp công nhân. Để đảm
bảo và tăng cường bản chất giai cấp công nhân, Đảng luôn gắn bó mật thiết với
giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể dân tộc trong tất cả thời kỳ
cách mạng. Hồ Chí Minh rèn luyện Đảng luôn luôn chú trọng tính thống nhất giữa
yếu tố giai cấp và yếu tố dân tộc. Sức mạnh của Đảng không chỉ bắt nguồn từ
giai cấp công nhân mà còn bắt nguồn từ các tầng lớp nhân dân lao động khác hay
nói cách khác là từ toàn dân tộc.
Chủ trương đại đoàn kết dân tộc rộng rãi
trên nền tảng liên minh công nhân, nông dân và tầng lớp trí thức, dưới sự lãnh
đạo của Đảng.
Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, trong thời đại mới, để đánh bại được các thế lực đế quốc
thực dân nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người, nếu
chỉ có tinh thần yêu nước thì chưa đủ, cách mạng muốn thành công và thành công
đến nơi thì phải tập hợp được các tất cả lực lượng có thể tập hợp, xây dựng khối
đại đoàn kết dân tộc bền vững. Chính vì vậy trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đại
đoàn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, cơ bản, nhất quán và lâu dài,
xuyên suốt quá trình cách mạng. Đại đoàn kết dân tộc sẽ xóa nhòa khoảng cách về
giai cấp, giàu nghèo…Sử dụng sức mạnh của lòng yêu nước, của tình nhân ái để
xóa bỏ rào cản giai cấp, tạo tiền đề vững mạnh để giải phóng dân tộc là chính
sách, đường lối lãnh đạo đúng đắn của Hồ Chí Minh.
Sử dụng bạo lực cách mạng của quần chúng để
chống lại bạo lực phản cách mạng của kẻ thù. Các thế lực đế quốc sử dụng bạo
lực để xâm lược và thống trị thuộc địa, đàn áp dã man các phong trào yêu nước.
Chưa đánh bại được lực lượng và đè bẹp ý chí xâm lược của chúng thì chưa thể thắng
lợi hoàn toàn. Vì thế, con đường để giành và giữ độc lập dân tộc chỉ có thể là
con đường bạo lực cách mạng. Tuy nhiên tư tưởng Hồ Chí Minh về bạo lực cách mạng
khác hẳn với tư tưởng hiếu chiến của các thế lực đế quốc xâm lược. Xuất phát từ
tình yêu thương con người, yêu chuộng hòa bình, tự do, công lý, Người tranh thủ
mọi khả năng dùng hòa bình để giải quyết xung đột nhưng một khi không thể thể
tránh khỏi chiến tranh thì phải kiên quyết tiến hành chiến tranh, kiên quyết
dùng bạo lực cách mạng, dùng khởi nghĩa và chiến tranh cách mạng để giành, giữ
và bảo vệ hòa bình, vì độc lập, tự do. Đánh giặc không phải là tiêu diệt hết lực
lượng, mà chủ yếu là đánh bại ý chí xâm lược của chúng, kết hợp giành thắng lợi
về quân sự với giải pháp ngoại giao để kết thúc chiến tranh.
Thiết lập chính quyền nhà nước của dân, do
dân và vì dân. Đó
là một nhà nước có sự thống nhất hài hòa giữa bản chất giai cấp công nhân với
tính nhân dân, tính dân tôc. Sự thống nhất đó thể hiện sự thành công của Hồ Chí
Minh khi giải quyết mối quan hệ dân tộc –giai cấp trong xây dựng Nhà nước Việt
Nam mới, được thể hiện trong những quan điểm sau: Nhà nước ra đời là kết quả của
cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ của rất
nhiều thế hệ người Việt Nam. Tính thống nhất còn biểu hiện ở chỗ Nhà nước ta bảo
vệ lợi ích của nhân dân, lấy lợi ích của dân tộc làm cơ bản. Người đã khẳng định
lợi ích cơ bản của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của toàn dân tộc
là một. Nhà nước ta không những thể hiện ý chí của giai cấp công nhân mà còn thể
hiện ý chí của nhân dân và toàn lao động. Trong thực tế, Nhà nước ta đã đứng ra
làm nhiệm vụ cả dân tộc giao phó, đã lãnh đạo nhân dân tiến hành các cuộc kháng
chiến để bảo vệ nền độc lập, tự do của tổ quốc, xây dựng một nước Việt Nam hòa
bình, thống nhất, dân chủ và giàu mạnh, góp phần tích cực vào sự phát triển tiến
bộ của thế giới.
2. Giải phóng
dân tộc là vấn đề trên hết, trước hết; độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
xã hội.
Sinh ra và lớn lên trong bối cảnh đất nước
bị biến thành thuộc địa, nhân dân phải chịu cảnh lầm than, Hồ Chí Minh được chứng
kiến các phong trào cứu nước của ông cha. Người nhận thấy con đường của Phan Bội
Châu chẳng khác gì “đưa hổ cửa trước, rước beo cửa sau”, con đường của Phan Chu
Trinh chẳng khác gì “xin giặc rủ lòng thương”, con đường của Hoàng Hoa Thám có
phần thực tế hơn nhưng vẫn mang nặng cốt cách phong kiến. Chính vì thế rất khâm
phục tinh thần cứu nước của ông cha, nhưng Hồ Chí Minh không tán thành các con
đường của họ, mà quyết tâm đi tìm một con đường mới. Trong khoảng 10 năm bôn ba
khắp các châu lục và quốc gia trên thế giới, sau khi đọc Tuyên ngôn độc lập của
Mỹ, tìm hiểu thực tiễn cuộc cách mạng tư sản Mỹ, đọc Tuyên ngôn dân quyền và
nhân quyền của cách mạng Pháp, người nhận thấy: “Cách mệnh Pháp cũng như cách mệnh
Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản, cách mệnh không đến nơi, tiếng là cộng hòa dân
chủ, kỳ thực trong thì nó tước lục công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa”. Bởi
lẽ đó, Người không đi theo con đường cách mạng tư sản. Con đường cứu nước mà Hồ
Chí Minh đã chọn là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.Năm 1920,
ngay sau khi quyết định phương hướng giải phóng và phát triển dân tộc theo con
đường của cách mạng vô sản, ở Hồ Chí Minh đã có sự gắn bó thống nhất giữa dân tộc
và giai cấp, dân tộc và quốc tế, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.Năm 1960,
Người nói: “Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các
dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”.
Tư tưởng Hồ Chí Minh vừa phản ánh quy luật
khách quan của sự nghiệp giải phóng dân tộc trong thời đại chủ nghĩa đế quốc, vừa
phản ánh mối quan hệ khăng khít giữa mục tiêu giải phóng dân tộc với mục tiêu
giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Chỉ xóa bỏ tận gốc tình trạng áp bức
bóc lột, thiết lập một nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân mới đảm bảo cho
người lao động có quyền làm chủ, mới thực hiện được sự phát triển hài hòa giữa
cá nhân và xã hội, giữa độc lập dân tộc với tự do và hạnh phúc của con người. Hồ
Chí Minh nói: “Nước được độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc tự do, thì độc
lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”.
Người khẳng định: “ Yêu tổ quốc, yêu nhân
dân phải gắn với yêu chủ nghĩa xã hội, có tiến lên chủ nghĩa xã hội thì nhân
dân mình mỗi ngày một ấm no thêm. Tổ quốc mỗi ngày một giàu mạnh thêm”
3.Giải phóng dân
tộc tạo tiền đề để giải phóng giai cấp
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, vấn
đề dân tộc chỉ là một nhân tố tác động lên vấn đề giai cấp, vấn đề giai cấp mới
là vấn đề bức thiết cần giải quyết trước. Quan điểm này hoàn toàn phù hợp với
hoàn cảnh bấy giờ ở các nước phương Tây (mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai
cấp vô sản ngày càng trở nên gay gắt đòi hỏi phải giải quyết). Mặt khác, các nước
phương Tây hầu hết là những nước có thuộc địa, do đó vấn đề dân tộc, đấu tranh
giải phóng dân tộc không phải là vấn đề đặt ra cấp thiết.
Tiếp thu chủ nghĩa Mác Lênin trên nền tảng
truyền thống yêu nước và nhân ái của dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh có quan điểm
riêng, độc đáo về vấn đề giai cấp và vấn để dân tộc, Người cho rằng cần có sự kết
hợp hài hòa giữa hai vấn đề, song phải đặt vấn đề dân tộc lên trên hết. Năm
1924, trong báo cáo về Bắc kì, Trung kì và Nam kì, Người cho rằng: “Mác đã xây
dựng học thuyết của mình trên một triết lí nhất định của lịch sử, nhưng lịch sử
nào? Lịch sử châu Âu. Mà châu Âu là gì? Đó chưa phải là toản thể nhân loại. Dù
sao cũng không thể cấm bổ sung “cơ sở lịch sử” của chủ nghĩa Mác bằng cách đưa
thêm vào đó những tư liệu mà Mác ở thời mình không thể có được”. Và Người đề
nghị: “Xem xét lại chủ nghĩa Mác về cơ sở lịch sử của nó, củng cố nó bằng dân tộc
học phương Đông. Ở phương Đông, cuộc đấu tranh giai cấp không diễn ra giống như
ở phương Tây, bởi vì xã hội Đông Dương, Ấn Độ hay Trung Quốc, xét về mặt cấu
trúc kinh tế không giống như xã hội phương Tây thời trung cổ, cũng như thời cận
đại, và đấu tranh giai cấp ở đó không quyết liệt như ở đây...”.Thật vây, trong
bối cảnh lúc đó, nước ta đang là thuộc địa của thực dân Pháp, tình hình trong
nước hoàn toàn khác với các nước phương Tây. Người cho rằng Việt Nam là một nước
thuộc địa nửa phong kiến, mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với chủ nghĩa đế quốc
và tay sai nổi trội hơn mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân và địa chủ phong kiến,
giữa tư sản và vô sản. Do đó không phải giải quyết vấn đề giai cấp rồi mới giải
quyết vấn đề dân tộc như ở các nước phương Tây. Ngược lại chỉ có thể giải quyết
vấn đề dân tộc mới giải quyết được vấn đề giai cấp.
Ban đầu quan điểm này của Người bị cho là
chủ nghĩa dân tộc vị kỉ, “chỉ lo đến việc phản đế, mà quên mất lợi ích giai cấp
tranh đấu”, nên tại Hội nghị lần thứ nhất Ban chấp hành Trung ương lâm thời của
Đảng đã chỉ trích và phê phán đường lối của Nguyễn Ái Quốc đưa ra trong Chính cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt đã phạm những sai lầm
chính trị rất “nguy hiểm”. Nhưng thực tiễn đã chứng minh quan điểm của Người
là đúng. Tháng 7-1935, Đại hội VII Quốc tế Cộng sản đã phê phán khuynh hướng “tả”
trong phong trào cộng sản quốc tế, chủ trương mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất
vì hòa bình, chủ nghĩa phát xít
Đến tháng 5-1941, Người cùng với Trung
ương Đảng khẳng định: “Trong lúc này, quyền lợi của một bộ phận, của giai cấp
phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, của dân tộc. Trong lúc này nếu
không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do
cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp
ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”.
4. Giữ vững độc
lập của dân tộc mình, đồng thời tôn trọng độc lập của dân tộc khác
Là một chiến sĩ quốc tế chân chính, Hồ Chí
Minh không chỉ đấu tranh cho độc lập của dân tộc Việt Nam, mà còn đấu tranh cho
độc lập của tất cả các dân tộc bị áp bức.
Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, chủ nghĩa yêu nước
chân chính phải được gắn liền với chủ nghĩa quốc tế vô sản, đại đoàn kết dân tộc
phải gắn liền với đại đoàn kết quốc tế, thực hiện đoàn kết quốc tế không phải
chỉ vì thắng lời cách mạng mỗi nước, mà còn vì mục tiêu chung của nhân loại tiến
bộ trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động quốc tế
vì các mục tiêu cách mạng của thời đại
Nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, thực hiện
nguyên tắc về quyền dân tộc tự quyết, nhưng Hồ Chí Minh không quên nghĩa vụ quốc
tế trong việc ủng hộ các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc trên thế giới. Năm
1914 trên đất Anh, Người đã ủng hộ quỹ kháng chiến của người Anh và nói: “Chúng
ta phải tranh đấu cho tự do, độc lập của dân tộc khác như là đấu tranh cho dân
tộc ta vậy”. Người nhiệt liệt ủng hộ cuộc
kháng chiến chống Nhật của nhân dân Trung Quốc, các cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp và chống đế quốc Mĩ xâm lược của nhân dân Lào và Campuchia, đề ra khẩu
hiệu: “giúp bạn là tự giúp mình” và chủ trương phải bằng thắng lợi cách mạng mỗi
nước mà đóng góp vào thắng lợi chung của cách mạng thế giới.
II.Ý
nghĩa của tinh thần mối quan hệ dân tộc giai cấp đối với cuộc sống, học tập, việc
làm sau này của bản thân
Nhiều người cho rằng quan điểm Hồ Chí Minh về
mối quan hệ dân tộc giai cấp chỉ có thể làm kim chỉ nam cho hành động của Đảng,
làm nền tảng tư tưởng cho công cuộc đổi mới,.. nghĩa là chỉ tác động đến tầm vĩ
mô. Nhưng mỗi quan điểm của Hồ Chí Minh
về một vấn đề không chỉ dừng lại ở hệ thống lí luận đơn thuần mà nó còn mang
trong mình tinh thần, tâm huyết của một con người. Việc tìm hiểu tư tưởng Hồ
Chí Minh đồng thời phải cảm nhận được hết tình cảm trong đó, để từ đó rút ra được
ý nghĩa cho cuộc sống, việc làm sau này của bản thân.
1. Linh
hoạt trong việc áp dụng lý thuyết vào thực tiễn
Khi nghiên cứu mối quan hệ
dân tộc-giai cấp trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đã bao giờ chúng ta tìm hiểu xem
làm sao Bác có thể khẳng định con đường đi của mình là đúng đắn khi trước đó
chưa có một ai đi theo con đường ấy, làm sao Bác có thể đặt việc giải quyết vấn
đề dân tộc lên trên vấn đề giai cấp trong khi chủ nghĩa Mác-Lênin lại quan niệm
ngược lại. Đó chính là một bài học cho chúng ta khi vận dụng lí thuyết vào thực
tiễn. Tất nhiên, Mác cũng xây dựng học thuyết của mình dựa trên thực tiễn,
nhưng đó là thực tiễn phương Tây. Hồ Chí Minh không tự khuông mình trong những
nguyên lý có sẵn, không rập khuôn máy móc lí luận đấu tranh giai cấp vào điều
kiện lịch sử ở thuộc địa mà có sự kết hợp hài hòa vấn đề dân tộc với vấn đề
giai cấp, giải quyết vấn đề dân tộc theo quan điểm giai cấp và giải quyết vấn đề
giai cấp trong quan điểm dân tộc, gắn độc lập dân tộc với định hướng xã hội chủ
nghĩa. Người nói: “Lý luận không phải là một cái gì cứng nhắc, nó đầy tính sáng
tạo; lý luận luôn luôn cần được bổ sung bằng những kết luận mới rút ra từ trong
thực tiễn sinh động”. Chúng ta cũng vậy, trong suốt quá trình học tập của mình,
chúng ta tiếp thu không ít kiến thức trên nhiều lĩnh vực, nhưng trên thực tế
chúng ta không dùng tất cả những kiến thức ấy, tùy từng hoàn cảnh mà chúng ta
nên áp dụng nó cho phù hợp, chứ không nên quá máy móc, áp đặt. Đặc biệt sau này
khi đối mặt với cuộc sống biến đổi từng ngày, đòi hỏi mỗi chúng ta càng phải
linh hoạt hơn.
2. Chúng
ta cần biết cách thống nhất, dung hòa các vấn đề
Khi nghiên cứu tư tưởng Hồ
Chí Minh về mối quan hệ dân tộc giai cấp, chúng ta có thể thấy Người đã thành
công khi giải quyết hài hòa, thống nhất vấn đề dân tộc-giai cấp, để làm được điều
đó không phải là điều dễ dàng và nó có ý nghĩa sâu sắc đối với cuộc sống, học tập
và việc làm sau này của bản thân mỗi người. Trong cuộc sống, chúng ta phải đối
mặt với nhiều vấn đề cần giải quyết, nhưng không phải lúc nào nó cũng đên lần
lượt mà hầu hết là đến một cách dồn dập làm chúng ta bối rối. Chẳng hạn như
trong quá trình học đại học, nhiều sinh viên chúng ta than thở rằng nếu tập
trung tham gia vào hoạt động tình nguyện thì kết quả học tập của chúng ta sẽ
không được tốt, nhưng tại sao vẫn có những người vừa tích cực tham gia các hoạt
động tình nguyện lại vừa học giỏi? Phải chăng là do tố chất. Không hẳn như vậy,
vấn đề đặt ra ở đây là chúng ta phải biết dung hòa giữa việc học tập, vui chơi
với bạn bè và tham gia hoạt động tình nguyện. Tất nhiên, đó không phải là điều
dễ dàng, nhưng nó không quá khó nếu chúng ta biết sắp xếp thời gian cho phù hợp.
Nếu làm được như vậy, các hoạt động sẽ bổ trợ lẫn nhau, ví dụ như hoạt động
tình nguyện sẽ giúp chúng ta có thêm kiến thức thực tế cho bài học trên lớp hay
giao lưu với các anh chị khóa trên để có thêm thông tin cho môn học; việc giao
lưu với bạn bè sẽ giúp bạn đỡ căng thẳng sau một tuần học tập mệt mỏi…Và đến
khi bạn đi làm, thời gian của bạn sẽ càng eo hẹp hơn, bạn càng phải biết cách
phân phối thời gian hợp lí cho việc làm, cho gia đình và cả thời gian cho bản
thân nghỉ ngơi… rồi vấn đề tiền bạc để trang trải cho những nhu cầu khác nhau.
Hơn nữa trong cuộc sống, bạn phải đối mặt với nhiều mối quan hệ, quan hệ trong
gia đình, quan hệ với bạn bè, quan hệ nơi làm việc với rất nhiều mâu thuẫn, bạn
phải điều hòa nó cho chính cuộc sống của bản thân bạn và cho cả những người
xung quanh. Rồi những mục tiêu của cuộc đời bạn, có những mục tiêu ngắn hạn và
những mục tiêu dài hạn, có những khi bạn phải đánh đổi mục tiêu này để đạt mục
tiêu kia…Cuộc sống, học tập và việc làm sau này của bản thân mỗi người hàm chứa
nhiều vấn đề phức tạp mà không phải lúc nào chúng ta cũng có thể phân định rõ
ràng, cần phải thống nhất chúng trong khả năng của bạn để làm cuộc sống của bạn
có thể đi vào quỹ đạo như bạn mong muốn.
3.Chúng
ta cần đặt lợi ích chung của tập thể lên trên lợi ích cá nhân
Giai cấp công nhân là một
phần của dân tộc Việt Nam, là một bộ phân không thể thiểu trong cách mạng Việt
Nam. Vì vậy tinh thần phản ánh trong mối quan hệ dân tộc giai cấp tương đồng với
tinh thần giữa cái chung và cái riêng, giữa bộ phận và tập thể. Xuất phát từ
hoàn cảnh trong nước, Người đã khẳng định: “Trong lúc này, quyền lợi của một bộ
phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, của dân tộc.
Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được
độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc
còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận giai cấp đến vạn năm cũng
không đòi lại được”. Theo Người, trong những hoàn cảnh nhất định, phải đặt lợi
ích của tập thể lên trên lợi ích của một bộ phận. Đây cũng là một bài học cho
cuộc sống học tập, việc làm sau này của chúng ta. Đôi khi chúng ta phải đặt lợi
ích của nhóm, của tập thê lên trên lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể có đảm bảo
thì lợi ích cá nhân cũng không bị ảnh hưởng. Điều này rất quan trọng khi chúng
ta học tập hay làm việc theo nhóm. Chúng ta cần làm việc với tinh thần trách
nhiệm, vì lợi ích chung cả nhóm chứ không ỷ lại hay chỉ quan tâm đến vấn đề của
mình. Khi nhóm làm việc hiệu quả thì công sức mỗi người bỏ ra cũng được đánh
giá cao hơn
4. Phát
huy tinh thần đoàn kết của tập thể
Một trong những nội dung
quan trọng thể hiện mối quan hệ dân tộc giai cấp trong tư tưởng Hồ Chí
Minh chính là đại đoàn kết dân tộc, và
cao hơn nữa là đại đoàn kết quốc tế. Để khẳng định ý nghĩa của tinh thần đoàn kết,
Người đã đúc kết trong hai câu: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công,
thành công, đại thành công”. Thật vậy, trong cuộc sống, con người không tồn tại
một cách đơn lẻ mà tồn tại trong mối quan hệ biện chứng với các thưc thể khác. Không
có ai hoàn hảo một cách tuyệt đối, không có ai tự mình có thể giải quyết được tất
cả mọi chuyện. Đoàn kết tạo nên sức mạnh, một lớp học đoàn kết, mọi người giúp
đỡ nhau trong học tập, rèn luyện sẽ phát triển, và bản thân mỗi thành viên cũng
hoàn thiện hơn; một đội bóng có đoàn kết mới làm nên chiến thắng; một công ty
có sự đoàn kết trong nội bộ, không tranh quyền đoạt vị, không gièm pha bôi nhọ
hay kìm hãm lẫn nhau sẽ thúc đẩy công ty phát triển…Mỗi chúng ta nên sống đoàn
kết, hòa đồng trong tập thể, có thể đó là lớp học, nơi làm việc hay khu dân cư,
có như vậy, không những chúng ta có thể nhận được sự giúp đỡ lúc khó khăn mà
quan trọng hơn nó giúp chúng ta bớt ích kỷ hơn, biết quan tâm nhiều hơn, chúng
ta học hỏi được nhiều từ những người khác để hoàn thiện hơn.
5.
Luôn giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình học tập và làm việc
sau này
Ngay từ khi quyết định
phương hướng giải phóng dân tộc, Hồ Chí Minh đã gắn bó độc lập với chủ nghĩa xã
hội. Người đã cho thấy tính ưu việt của nhà nước xã hội chủ nghĩa so với các
nhà nước khác và thực tế đã chứng minh con đường đi của Người là đúng. Trong
công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc, Đảng và nhân dân Việt Nam luôn kiên định
đi theo con đường xã hội chủ nghĩa, tuy nhiên bên cạnh đó còn tồn tại rất nhiều
thế lực chống phá, ở cả bên trong và ngoài nước nhằm xóa bỏ chủ nghĩa xã hội ở
nước ta. Vì vậy, việc giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình học
tập và làm việc không phải là một điều gì đó quá xa vời đối với mỗi sinh viên
chúng ta. Ngược lại, đó là một điều vô cùng cần thiết và thiết thực. Bởi lẽ,
khi chúng ta càng đi sâu vào cuộc sống, càng có nhiều mối quan hệ, tiếp cận vời
nhiều luồng thông tin, luồng tư tưởng khác nhau, và không ít tư tưởng nhằm bôi
nhọ Đảng, bôi nhọ nhà nước, làm lung lay niềm tin của chúng ta vào con đường xã
hội chủ nghĩa mà Đảng và Bác Hồ đã chọn, và với vốn hiểu biết còn hạn hẹp, làm
sao chúng ta có thể phân định rõ đâu là đúng, đâu là sai. Vậy giữ vững định hướng
xã hội chủ nghĩa là gì? Đơn giản chúng ta cần có niềm tin vào Đảng, vào Bác,
vào con đường xã hội chủ nghĩa, cần tích cực học tập, rèn luyện để trở thành một
công dân tốt, đóng góp vào sự nghiệp phát triển của đất nước.
C\ KẾT LUẬN
Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ dân tộc,
giai cấp vừa mang tính khoa học đúng đắn, vừa có tính chất cách mạng sâu sắc.
Tư tưởng của Người về vấn đề này không chỉ tiếp thu, kế thừa những giá trị,
tinh hoa trong chủ nghĩa Mác-Lênin mà khi vận dụng những nguyên lí đó, Hồ Chí
Minh đã mạnh dạn loại bỏ những gì không thích hợp với điều kiện cụ thể của nước
ta, đề xuất những vấn đề mơi do thực tiễn đặt ra và giải quyết nó một cách linh
hoạt, khoa học, hiệu quả. Trong tư tưởng của Người có sự kết hợp hài hòa vấn đề
dân tộc với vấn đề giai cấp, giải quyết vấn đề dân tộc theo quan điểm giai cấp
và giải quyết vấn đề giai cấp trong vấn đề dân tộc, gắn độc lập dân tộc với
phương hướng xã hội chủ nghĩa. Tư tưởng của Người đã trở thành nền tảng tư tưởng
và kim chỉ nam cho hành động của cách mạng Việt Nam, không chỉ đem lại cho cách
mạng Việt Nam mà tính đúng đắn của nó
còn được Quốc tế cộng sản khẳng định, được các dân tộc thuộc địa khác noi theo
và còn tiếp tục dẫn đường chỉ lối cho công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam. Không những vậy, việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc,
giai cấp còn giúp bản thân mỗi sinh viên chúng ta củng cố lập trường, quan điểm
cách mạng, đồng thời vận dụng tinh thần tư tưởng này vào việc giải quyết các vấn
đề đặt ra trong cuộc sống học tập, việc làm sau này, giúp chúng ta hoàn thiện
hơn, trở thành con người xã hội chủ nghĩa trong thời đại mới.
Comments
Post a Comment