Tổng quan ngân hàng phát triển Việt Nam



Mục lục


Ngân hàng Phát triển Việt Nam (Vietnam Development Bank - VDB) được thành lập trên cơ sở Quỹ Hỗ trợ Phát triển theo quyết định 108/2006/QĐ-TTG của Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 19/05/2006.  Là một đơn vị cho vay chính sách phi lợi nhuận, với số vốn điều lệ lên tới 10 nghìn tỷ đồng. Cùng với Ngân hàng Chính sách Xã hội Việt Nam, VDB có mục tiêu đóng góp vào quá trình xoá đói giảm nghèo thông qua các khoản vay cho các công trình xây dựng thuỷ lợi và giao thông nông thôn, xây dựng cơ sở hạ tầng cho các làng nghề, xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội cho các vùng sâu, vùng xa và hỗ trợ xuất khẩu để thực hiện chính sách tín dụng đầu tư và tín dụng xuất khẩu của Nhà nước.
Ngày 19/5/2006, Thủ tướng Chính phủ cũng ban hành Quyết định số 110/2006/QĐ-TTg về việc phê duyệt Điều lệ tổ chức và hoạt động của NHPT. 
Tiếp đó, ngày 30/3/2007, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 44/2007/QĐ-TTg về việc ban hành Quy chế quản lý tài chính đối với Ngân hàng Phát triển Việt Nam. 
Ngân hàng Phát triển Việt Nam có tư cách pháp nhân, có vốn điều lệ, có con dấu, được mở tài khoản tại Ngân hàng Nhà nước, Kho bạc Nhà nước, các ngân hàng thương mại trong nước và nước ngoài, được tham gia hệ thống thanh toán với các ngân hàng và cung cấp dịch vụ thanh toán theo quy định của pháp luật. Ngân hàng Phát triển Việt Nam kế thừa mọi quyền lợi, trách nhiệm từ Quỹ Hỗ trợ phát triển. 
Vốn Điều lệ của NHPT là 5.000 tỷ đồng từ nguồn vốn điều lệ hiện có của Quỹ Hỗ trợ phát triển. Tại Quyết định số 44/2007/QĐ-TTg ngày 30/3/2007, Thủ tướng Chính phủ quyết định: Ngân hàng Phát triển Việt Nam thuộc sở hữu nhà nước, có vốn điều lệ là 10.000 tỷ đồng. 
Theo Dự thảo Dự thảo Quyết định của Thủ tướng ban hành Điều lệ tổ chức và hoạt động của Ngân hàng Phát triển Việt Nam (VDB) để thay thế cho Quyết định số 110/2006/QĐ-TTg ngày 19/5/2006 của Thủ tướng Chính phủ, VDB là ngân hàng chính sách 100% vốn chủ sở hữu của Nhà nước, hoạt động theo Luật Ngân sách nhà nước, Luật Các TCTD, các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan...
Vốn điều lệ của Ngân hàng Phát triển Việt Nam là 30 nghìn tỷ đồng. Việc điều chỉnh, bổ sung mức vốn điều lệ tùy thuộc yêu cầu và nhiệm vụ cụ thể, bảo đảm tỷ lệ an toàn vốn của VDB và do Hội đồng thành viên báo cáo Bộ trưởng Bộ Tài chính xem xét trình Thủ tướng Chính phủ quyết định.
Nguồn vốn hoạt động của VDB bao gồm: Vốn điều lệ do ngân sách Nhà nước cấp và được bổ sung theo quy định; Vốn ngân sách nhà nước cấp bổ sung hàng năm phục vụ cho mục tiêu hoạt động của VDB; Vốn ODA và vốn vay nước ngoài của Chính phủ uỷ thác cho Ngân hàng phát triển Việt Nam cho vay lại.
VDB cũng được huy động vốn qua phát hành trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh theo quy định của pháp luật; huy động qua phát hành trái phiếu, kỳ phiếu, giấy tờ có giá của VDB theo quy định của pháp luật.
Bên cạnh đó, còn nguồn vốn vay, nhận tiền gửi của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước khác; Vốn đóng góp tự nguyện không hoàn trả của các cá nhân, các tổ chức kinh tế, tổ chức tài chính, tín dụng và các tổ chức chính trị - xã hội, các hiệp hội, các hội, các tổ chức trong và ngoài nước.
Ngoài ra còn vốn nhận uỷ thác của chính quyền địa phương, các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước để cho vay các dự án đầu tư phát triển, các chương trình xuất khẩu hàng hóa thông qua hợp đồng nhận uỷ thác giữa VDB với bên uỷ thác; Các nguồn vốn khác theo quy định của pháp luật...
Hoạt động của Ngân hàng Phát triển Việt Nam không vì mục đích lợi nhuận, tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng 0% (không phần trăm), không phải tham gia bảo hiểm tiền gửi. 
Ngân hàng Phát triển được Chính phủ bảo đảm khả năng thanh toán, được miễn nộp thuế và các khoản nộp ngân sách nhà nước theo quy định của pháp luật. 
Thời hạn hoạt động của Ngân hàng Phát triển là 99 năm, kể từ ngày Quyết định số 108/2006/QĐ-TTg ngày 19/5/2006 của Thủ tướng  Chính phủ về việc thành lập NHPT có hiệu lực.  
- Huy động, tiếp nhận vốn của các tổ chức trong và ngoài  nước để thực hiện tín dụng đầu tư phát triển và tín dụng xuất khẩu theo quy định của Chính phủ; 
- Thực hiện chính sách tín dụng đầu tư phát triển và tín dụng xuất khẩu của Nhà nước theo quy định; 
- Nhận uỷ thác quản lý nguồn vốn ODA được Chính phủ cho vay lại; nhận uỷ thác, cấp phát cho vay đầu tư và thu hồi nợ của khách hàng từ các tổ chức trong và ngoài nước thông qua hợp đồng nhận uỷ thác giữa Ngân hàng Phát triển với các tổ chức uỷ thác; 
- Uỷ thác cho các tổ chức tài chính, tín dụng thực hiện nghiệp vụ tín dụng của Ngân hàng Phát triển;
- Cung cấp các dịch vụ thanh toán cho khách hàng và tham gia hệ thống thanh toán trong nước và quốc tế phục vụ các hoạt động của Ngân hàng Phát triển theo quy định của pháp luật.
- Thực hiện nhiệm vụ hợp tác quốc tế trong lĩnh vực tín dụng đầu tư phát triển và tín dụng xuất khẩu.
 Bảo lãnh cho doanh nghiệp vay vốn Ngân hàng thương mại theo Quyết định số 14/QĐ-TTg ngày 21/01/2009 của Thủ tướng Chính phủ;
- Cho Doanh nghiệp gặp khó khăn do suy giảm kinh tế vay vốn trả nợ lương và thanh toán BHXH đối với người lao động mất việc làm theo Quyết định số 30/QĐ-TTg ngày 23/02/2009 của Thủ tướng Chính phủ.
DN vay vốn của Ngân hàng Phát triển với lãi suất cho vay sẽ rẻ hơn vay của các NHTM khác. Bởi vì ngân hàng cho vay theo lãi suất thị trường, theo thông lệ quốc tế là lãi suất trái phiếu Chính phủ kỳ hạn 5 năm cộng thêm một khoản phí nhất định (khoảng 1%/năm). Điều này cho thấy sự ưu đãi không chỉ được vay rẻ mà thời hạn cho vay dài sẽ giúp cho đối tượng vay vốn chủ động hơn trong kế hoạch sản xuất. Hơn nữa, việc khấu hao máy móc, nhà xưởng, v.v. cũng được dài hơn nên khách hàng vay vốn có điều kiện tích lũy để tái sản xuất và mở rộng đầu tư. Lãnh đạo của Ngân hàng Phát triển cho biết, điều kiện cho vay của ngân hàng đơn giản hơn so với vay từ các NHTM khác như không phải thế chấp, hoặc nếu có thì tỷ lệ thế chấp ở mức tương đối thấp, bằng 30% giá trị khoản vay. Trong tương lai, ngân hàng có dự định trình Chính phủ giảm mức thế chấp xuống còn 15% giá trị khoản vay.
Thực hiện một số nhiệm vụ khác do Thủ tướng chính phủ giao. 
Theo Quyết định số 108/2006/QĐ-TTg, cơ cấu tổ chức của NHPT gồm:
- Hội đồng quản lý
- Ban kiểm soát
- Bộ máy điều hành gồm: 
+ Hội sở chính đặt tại Thủ đô Hà Nội
+ Sở giao dịch, Chi nhánh, Văn phòng đại diện trong nước và nước ngoài. 
Cho đến thời điểm hiện nay, toàn hệ thống NHPT có 02 Sở Giao dịch, 05 Chi nhánh khu vực và 49 Chi nhánh NHPT tại các tỉnh, th ành phố trực thuộc Trung ương.
 So với hoạt động của Quỹ Hỗ trợ phát triển, Ngân hàng Phát triển hiện nay sẽ được tăng quyền chủ động, tăng tính trách nhiệm trong đánh giá, thẩm định cho vay các dự án và có quyền từ chối cho vay đối với những dự án kém hiệu quả.
So với các NHTM khác, Ngân hàng Phát triển có sự khác biệt là tổ chức tài chính thuộc sở hữu 100% của Chính phủ, không nhận tiền gửi từ dân cư. Do hoạt động của ngân hàng không vì mục đích lợi nhuận nên được hưởng một số ưu đãi đặc biệt như không phải dự trữ bắt buộc, không phải tham gia bảo hiểm tiền gửi, được Chính phủ bảo đảm khả năng thanh toán, được miễn nộp thuế và các khoản nộp ngân sách nhà nước theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, ngân hàng vẫn chịu sự điều tiết của Luật các tổ chức tín dụng, do vậy vẫn phải chấp hành các quy định trong việc thực hiện chính sách tiền tệ, chính sách tín dụng, và quản lý ngoại hối của Ngân hàng nhà nước.

II. Hoạt động của Ngân hàng Phát triển Việt Nam

Nguồn: Webside Ngân hàng phát triển Việt Nam (vdb.gov.vn)
             Báo cáo thường niên của NHPT năm 2011

1. Hoạt động của VDB

1.1. Hoạt động huy động và tiếp nhận nguồn vốn:

-  Vay vốn và nhận tiền gửi của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước.
Năm 2011, NHPT đã đẩy mạnh công tác huy động vốn trong toàn hệ thống với cơ chế lãi suất linh hoạt, một mặt đảm bảo đúng quy định của NHNN, mặt khác phù hợp với cơ chế thị trường nhằm đảm bảo nguồn vốn hoạt động cho NHPT. Kết quả đạt được là tổng nguồn vốn NHPT huy động, tiếp nhận được là gần 49.500 tỷ đồng và trên 590tr USD.
Trong năm 2013, nhiều dự án vay vốn tín dụng Nhà nước thông qua NHPT đã hoàn thành và đi vào hoạt động hiệu quả đã góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy phát triển kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội.
Trong tháng 1/2014: Thu hút được hơn 200 triệu USD vốn FDI cấp mới. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện tháng Một ước tính đạt 465 triệu USD, tăng 3,3% so với cùng kỳ năm 2013.
-  Phát hành trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh theo quy định của pháp luật về phát hành trái phiếu Chính phủ, trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh.
Trong năm 2013, NHPT đã phối hợp với Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội và Trung tâm lưu ký chứng khoán Việt Nam tổ chức 24 phiên đầu thầu trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh do NHPT phát hành với các kì hạn: 1 năm, 2 năm, 3 năm, 5 năm và 10 năm.
Kết quả sau 24 phiên đấu thầu, NHPT đã huy động thành công 40.000 tỷ đồng trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh qua hình thức đấu thầu tại HNX, đạt 100% kế hoạch phát hành cả năm.
-  Phát hành trái phiếu, kỳ phiếu, giấy tờ có giá của Ngân hàng Phát triển Việt Nam theo quy định của pháp luật.

1.2. Hoạt động tín dụng:

-  Tín dụng đầu tư
Năm 2011, NHPT đã giải ngân  cho các dự án TDĐT đạt 23452 tỷ đồng. NHPT tiếp tục hỗ trợ thực hiện 2 chương trình của Chính phủ ( kiên cố hóa kênh mương và và tôn nền vượt lũ ĐB Sông Cửu Long) với số tiền giải ngân là 2500 tỷ đồng.
Năm 2013, hoàn thành giai đoạn I dự án điện gió tại khu vực đồng bằng sông Cửu Long.  đưa 10 trụ turbin đầu tiên với tổng công suất 16MW đi vào hoạt động, góp phần khai thác nguồn năng lượng sạch, hòa lưới điện quốc gia, góp phần đáp ứng nhu cầu năng lượng chung của quốc gia và phát triển kinh tế - du lịch trên địa bàn.
Trong năm 2013, đã thực hiện điều chỉnh lãi suất cho vay vốn  tín dụng đầu tư phát triển. mức lãi suất cho vay TDĐT của Nhà nước đối với các khoản giải ngân vốn TDĐT của Nhà nước được quy định cụ thể như sau: Lãi suất cho vay TDĐT của Nhà nước bằng đồng Việt Nam là 10,8%/năm. Lãi suất nợ quá hạn bằng 150% lãi suất trong hạn, tính trên cả số nợ gốc và lãi chậm trả.
 Tháng 2/2014, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 216/QĐ-TTg phê duyệt danh mục dự án “Phát triển lưới điện Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh” vay vốn Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB).
Dự án “Phát triển lưới điện Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh” có mức vốn đầu tư 366,98 triệu USD, trong đó vốn ODA vay của ADB và Quỹ hạ tầng ASEAN (AIF) tài trợ qua ADB là 272,71 triệu USD, và  94,27 triệu USD là vốn đối ứng do các Tổng công ty điện lực Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh bố trí trên vốn tự có. Thời gian thực hiện Dự án là 3 năm, từ năm 2014-2016
Đầu tư trực tiếp nước ngoài trong tháng 1 năm 2014 thu hút 40 dự án được cấp phép mới với số vốn đăng ký đạt 211 triệu USD, giảm 50,6% về số dự án và giảm 52,4% về số vốn so với cùng kỳ năm 2013. Đồng thời có 6 lượt dự án đã cấp phép từ các năm trước được cấp vốn bổ sung với 186,1 triệu USD. Như vậy tổng vốn đăng ký của các dự án cấp mới và vốn cấp bổ sung đạt 397,1 triệu USD, giảm 21,9% so với cùng kỳ năm 2013
- Tín dụng xuất khẩu
 Nghiệp vụ tín dụng xuất khẩu (TDXK) tại NHPT, là hình thức cho vay vốn tín dụng ngắn hạn. Theo Công văn số 1029 NHPT- TDXK ngày 26/3/2010 của NHPT về việc hướng dẫn một số giải pháp điều hành xuất khẩu, nhằm đảm bảo an toàn trong nghiệp vụ TDXK ngắn hạn của hệ thống, quy định bắt buộc phải dùng biện pháp bảo đảm tài sản hình thành trong tương lai (tài sản hình thành từ vốn vay) ngoài giá trị tài sản đảm bảo khác tối thiểu là 15% đối với tất cả các khách hàng vay vốn TDXK tại NHPT. Việc bắt buộc bảo đảm tài sản hình thành từ vốn vay của nghiệp vụ TDXK theo văn bản nói trên nhằm quản lý được đầu ra và giảm thiểu rủi ro cho NHPT.
Doanh số cho vay TDXK năm 2011 đạt xấp xỉ 20000 tỷ đồng, dư nợ bình quânđạt 16700 tỷ đồng, hoàn thành 98% kế hoạch. Khách hàng vay vốn là những DN uy tín về các mặt hàng thủy sản, cà phê, điều, đồ gỗ, rau quả, chè… Hoạt động cho vay các dự án xuất khẩu  được thực hiện theo hướng thận trọng, đảm bảo an toàn tín dụng thông qua các biện pháp bảo đảm tiền vay, rà soát, đánh giá chất lượng khách hàng, xây dựng giới hạn tín dụng đối với từng DN
       - Vốn ODA cho vay lại và các Quỹ quay vòng
Nguồn vốn ODA hơn 20 năm qua đã góp phần đáng kể vào sự nghiệp đầu tư phát triển của nước ta, nhất là các dự án thủy điện và nông nghiệp. Tổng vốn ODA mà các nhà tài trợ đã cam kết cho vay tối đa xấp xỉ 80 tỷ USD; trong đó số vốn đã cam kết các nhà tài trợ đã ký kết đạt trên 63 tỷ USD. Với gần 50 nhà tài trợ vốn ODA, Nhật Bản là đối tác lớn nhất, chiếm 30% số vốn cam kết và lâu nhất là Phần Lan đã tài trợ từ 40 năm trước cho đến nay.
NHPT là cơ quản lí  60% vốn ODA tại Việt Nam với tổng số vốn quản lí theo hợp đồng tín dụng khoảng 10 tỷ USD. Trong đó ngân hàng quản lí 388 dự án ODA cho vay lại theo ủy quyền của Bộ Tài chính. 9 chương trình  mục tiêu
Tổng số vốn giải ngân trong năm 2011 là hơn 10 577 tỷ đồng, đạt 106% kế hoạch giải ngân năm 2011, dư nợ đat 109290 tỷ đồng.
   Bên cạnh việc quản lí vốn ODA của các nước tài trợ cho Việt Nam, NHPT cũng quản lí, cho vay 1 số dự án ODA của Việt Nam ra nước ngoài. Hoàn thành công tác giải ngân cho Dự án Nâng cấp Quốc lộ 78 Campuchia với gần 25tr USD, thực hiện giải ngân cho Dự án Xây dựng đường 2E Bắc Lào
        - Bảo lãnh tín dụng
Năm 2011, NHPT tiếp tục thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh doanh nghiệp vay vốn tại các NHTM. 211 chứng từ còn hiệu lực với giá trị vốn vay cam kết bảo lãnh là 2766 tỷ đồng. dư nợ vay là 1944 tỷ đồng

1.3. Hỗ trợ sau đầu tư, quản lí vốn  ủy thác và cho vay khác

NHPT tiếp tục quản lí và cấp  hỗ trợ cho 440 dự án với số tiền hỗ trợ theo hợp đồng hơn 2400 tỷ đồng.
Cấp phát di dân tái định cư và dự án đường giao thong tránh ngập Dự án thủy điện Sơn La: NHPT đã cấp 2500 tỷ đồng, đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn, góp phần vào tiến độ chung và thành công của Dự án THủy điện  có quy mô lớn nhất khu vực Đông Nam Á.
    Cấp phát và cho vay vốn đầu tư ủy thác: NHPT đã quản lí, cấp phát 582 tỷ đồng vốn ủy thác đầu tư phát triển , cho vay vốn đầu tư nhận ủy thác của khách hàng với doanh số đạt gần 60 tỷ đồng, nâng tổng mức dư nợ vốn cho vay theo ủy thác lên gần 3000 tỷ đồng.
Trong năm 2014, tiếp tục hỗ trợ giai đoạn II dự án điện gió tại khu vực đồng bằng sông Cửu Long
Đảm bảo hoàn thành dự án Đường ô tô cao tốc Hà Nội – Hải Phòng vào năm 2015
Thực hiện theo mục tiêu tổng quát trong chiến lược phát triển của NHPT Việt Nam được thể hiện khá đơn giản, với cách tiếp cận khiêm tốn: “Tiếp tục củng cố và phát triển NHPT là một ngân hàng chính sách hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận theo hướng bền vững, hiệu quả, đảm bảo đủ năng lực để thực hiện chính sách tín dụng đầu tư, tín dụng xuất khẩu của Nhà nước và các nhiệm vụ khác do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ giao, góp phần thực hiện chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong từng thời kỳ”.
Là một tổ chức được Chính phủ thành lập nhằm thực hiện chính sách tín dụng ĐTPT và tín dụng xuất khẩu của Nhà nước, hoạt động của VDB phải phù hợp với chủ trương, chính sách, pháp luật hiện hành và các cam kết quốc tế, đặc biệt là cam kết gia nhập WTO.
Với mô hình là một ngân hàng chính sách, VDB phải phát huy vai trò là công cụ của Chính phủ để thực hiện chính sách ĐTPT và thúc đẩy xuất khẩu thông qua việc thực hiện các hình thức tín dụng; đảm bảo an toàn và nâng cao chất lượng tín dụng; tổ chức và hoạt động theo qui định của pháp luật phù hợp với thông lệ quốc tế.
Do ngành tài chính giữ vị trí đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, lượng vốn thông qua VDB dành cho đầu tư phát triển rất lớn nên việc đảm bảo sự an toàn có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với cả VDB nói riêng và toàn ngành tài chính cũng như nền kinh tế nói chung. Cùng với việc đảm bảo sự an toàn, hoạt động của VDB phải góp phần giải quyết nhu cầu về vốn cho đầu tư phát triển các lĩnh vực, ngành nghề trọng điểm và các vùng miền khó khăn của đất nước trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế; đồng thời phải đảm bảo yêu cầu nâng cao hiệu quả đầu tư, nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế, đảm bảo nền kinh tế phát triển bền vững theo chủ trương của Chính phủ.
Qua đó, ta có thể thấy được hoạt động tín dụng đầu tư và tín dụng xuất khẩu là những hoạt động chính của NHPT Việt Nam.

III .Sai phạm của VDB và hoạt động yếu kém ở VDB:

1. Sai phạm ở VDB:

VDB là ngân hàng chính sách, được bố trí, cấp phát vốn từ ngân sách, từ vốn phát hành trái phiếu trên thị trường (Chính phủ bảo lãnh) vốn ODA do chính phủ giao để cho vay lại các dự án… Vì vậy hiệu quả cho vay của VDB ảnh hưởng rất lớn đến tình hình nợ công, khả năng cân đối ngân sách và trả nợ.
Với  vai trò là công cụ tài chính của Chính phủ trong việc thực hiện các chính sách kinh tế - xã hội, VDB đã có nhiều nỗ lực, cố gắng để hoàn thiện nhiệm vụ. Tuy nhiên những năm gần đây, ngân hàng mắc phải một số vi phạm, khuyết điểm. Năm 2008 – 2010, VDB chưa thực hiện đúng nguyên tắc chỉ huy động các nguồn vốn với lãi suất thị trường để cho vay khi đã sử dụng tối đa các nguồn vốn không phải lãi hoặc lãi suất thấp; chưa có giải pháp chủ động trong việc cân đối  huy động vốn, dẫn đến tình trạng vốn đã huy động nhưng chưa sử dụng, còn tồn lớn, khiến việc sử dụng kém hiệu quả, tăng chi phí nghiệp vụ ngân hàng. 
Qua thanh tra việc cho vay tín dụng đầu tư và xuất khẩu tại VDB cho thấy tình trạng vi phạm các quy định diễn ra ở nhiều dự án dẫn đến nợ xấu tăng cao, khó có khả năng thu hồi vốn, Điều này cũng lý giải phần nào một thực tế là nhiều doanh nghiệp, dù không phải đối tượng được vay, nhưng vẫn tìm mọi cách vay vốn ở VDB bởi nguồn vốn từ ngân sách nhà nước dồi dào, lãi suất thấp và thời gian trả nợ cũng như điều kiện vay đôi khi dễ hơn nhiều so với các ngân hàng thương mại.
Theo VDB, tính đến ngày 31/12/2010, nợ xấu của ngân hàng là 22.600 tỷ đồng. Tuy nhiên, theo kết quả thanh tra thì nợ xấu của VDB hơn 38.000 tỷ đồng, chiếm hơn 12,5% tổng dư nợ. Trong đó, các khoản nợ xấu nhận bàn giao từ tổ chức tiền thân của VDB ( tổng cục Đầu tư phát triển, Quỹ đầu tư phát triển) chưa được xử lý chiếm hơn 5.000 tỷ đồng; nợ đối với các chương trình của Chính phủ chỉ định cho vay, ngân hàng không thực hiện thẩm định là hơn 6.000 tỷ đồng; nợ cho vay vốn ODA khoảng 2.000 tỷ đồng và nợ cho vay các dự án thuộc chương trình đóng tàu Vinashin gần 3.800 tỷ đồng.
VDB chỉ được cho vay tín dụng đầu tư và xuất khẩu theo đúng đối tượng được nhà nước quy định hoặc khuyến khích. Nhưng trên thực tế, VDB ban hành quy định và cho vay thí điểm không đúng thẩm quyền, chưa phù hợp với quy định của Chính phủ. Nợ xấu từ việc cho vay thí điểm hiện còn 238 tỷ đồng và rất khó thu hồi.
Ngoài ra, VDB còn mắc phải khuyết điểm trong thẩm định dự án, vi phạm trong thủ tục đầu tư, điều kiện vốn, kiểm tra sau cho vay… đã dẫn đến dư nợ từ vài nghìn đến hơn một chục nghìn tỉ đồng cho mỗi hạng mục.

2. Ví dụ cụ thể về sai phạm của VDB:

-         Vướng vào Vinashin: tính đến ngày 31/12/2010, nợ xấu của VDB ở mức 22.664 tỉ đồng (chiếm 12,57% tổng dư nợ). Trong số đó có 3.790 tỉ đồng cho Tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy Việt Nam vay, trên 6.000 tỉ là cho các chương trình của Chính phủ chỉ định vay. Sau khi kiểm tra hồ sơ cho vay đã phát hiện hàng loạt sai phạm như cho vay không đúng đối tượng, sử dụng vốn vay sai mục đích; thẩm định cho vay vốn chưa chính xác, sai căn cứ; vi phạm về tài sản bảo đảm và trong giải ngân. Có tới 38 khách hàng của VDB sử dụng vốn vay sai mục đích với số tiền lên tới 7.339 tỉ đồng. Đặc biệt là việc VDB cho vay 35 dự án đóng mới tàu biển, tàu sông…có tổng dư nợ lên tới 2.509 tỉ đồng với nhiều vi phạm và nhiều khả năng mất vốn.
-         Tổng Công ty phát triển hạ tầng và Đầu tư tài chính Việt Nam(VIDIFI) chưa thực hiện đầy đủ thủ tục quy định chỉ định thầu đối với gói thầu vay vốn nhưng VDB vẫn phê duyệt cho vay và dẫn tới sử dụng sai mục đích. Đặc biệt là khoản tiền 1.000 tỉ đồng xin thủ tướng cho tạm ứng từ Kho bạc Nhà nước để đáp ứng yêu cầu cấp bách giải phóng mặt bằng thuộc dự án xây dựng Quốc lộ 5 mới nhưng VIDIFI đã sử dụng trên 334 tỉ đồng để trả nợ vay tại Ngân hàng Đầu tư Phát triển Bắc Hà Nội để kinh doanh thép.
-         VDB liên quan đến dự án mua tàu để kinh doanh vận tải kết hợp với huấn luyện của Đại học Hàng hải, theo như thanh tra phát hiện có thẩm định giá sai, mua tàu cũ với giá cao hơn giá trị trong sổ sách trên 2,1 triệu USD.
-         Vụ việc tại dự án nhà máy sản xuất cao su Power, do Công ty TNHH Lê Hiệp làm chủ đầu tư, có dấu hiệu lừa đảo và sử dụng một bộ hồ sơ, giấy tờ để vay vốn tại 2 ngân hàng (VDB và Techcombank). Chi nhánh của VDB tại khu vực Bắc Ninh – Bắc giang đã giải ngân trên cơ sở các chứng từ photocopy mà các chứng từ này đã được giải ngân ở Techcombank. Dư nợ trong vụ việc này đến hết năm 2011 là trên 15 tỉ đồng, thuộc nhóm nợ có khả năng mất vốn.
-         Một vụ nữa liên quan đến Công ty TNHH thương mại Trúc Tâm vay vốn tại VDB chi nhánh Đăk Lăk – Đăk Nông, VDB bị đánh giá là thiếu trách nhiệm trong việc xác định thời hạn cho vay; thiếu trách nhiệm kiểm tra, đánh giá việc sử dụng vốn vay. Doanh nghiệp này đã cung cấp thông tin tài chính sai sự thật cho ngân hàng. Đến nay doanh nghiệp này đã ngừng hoạt động, giám đốc và phó giám đốc đi khỏi nơi cư trú, sau khi xử lý tài sản bảo đảm, số dư nợ còn lại (trên 72 tỉ đồng) cũng thuộc nhóm nợ có khả năng mất vốn.
-         Lãnh đạo Công ty cổ phần đầu tư Nam Trung Bộ ( SCCI) và lãnh đạo của chi nhánh VDB Ninh Thuận đã làm giả một loạt các hồ sơ vay vốn khống. Sau khi được cấp chúng thư vay vốn bảo lãnh từ tháng 3 đến tháng 9/2011, các nhân vật này đã vẽ ra 21 hợp đồng kinh tế mua bán nông sản nhằm hợp thức hóa số vốn vay ưu đãi lên tới 225 tỷ đồng. Các hồ sơ vay vốn của SCCI được VDB duyệt có cả những hồ sơ chỉ gồm những bản photocopy không có giá trị về mặt pháp lý đi kèm với hàng loạt công ty chỉ có trong tưởng tượng, vậy mà hàng trăm tỷ đồng đã được hợp lý hóa rót vốn cho SCCI.

IV. Nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động NHPTVN

1.Thuận lợi

a.chính sách tín dụng của nhà nước
-Tăng trưởng tín dụng năm 2013 đạt 8,83%
Định hướng chính trong 2013 là mở rộng tín dụng hiệu quả, tập trung vốn đầu tư cho các lĩnh vực ưu tiên, cho vay để thúc đẩy tiêu thụ hàng hóa, giảm tồn kho, đầu tư cho các dự án trọng điểm tạo ra sự lan tỏa và phục vụ nhu cầu tiêu dùng thiết yếu của nhân dân, đảm bảo an sinh xã hội. Theo thông báo của Ngân hàng Nhà nước, mặc dù tăng trưởng tín dụng đạt tốc độ 8,83% so với cuối năm 2012, thấp hơn chỉ tiêu định hướng 12%.Ngân hàng Nhà nước đánh giá: “chất lượng tín dụng, hiệu quả tín dụng đối với nền kinh tế cũng được cải thiện rõ rệt.
-Điều chỉnh lãi suất cho vay tín dụng đầu tư,tín dụng xuất khẩu
Ngày 14/11/2013, Bộ Tài chính ban hành Thông tư số 161/2013/TT-BTC sửa đổi, bổ sung Thông tư số 77/2013/TT-BTC ngày 04/6/2013 của Bộ Tài chính về việc quy định lãi suất cho vay tín dụng đầu tư, tín dụng xuất khẩu của nhà nước và mức chênh lệch lãi suất được tính hỗ trợ sau đầu tư.Theo Thông tư trên, lãi suất cho vay tín dụng đầu tư của Nhà nước bằng đồng Việt Nam là 10,8%/năm. Mức lãi suất này được điều chỉnh giảm so với mức 11,4%/năm quy định tại Thông tư77/2013/TT-BTC.
Mức lãi suất cho vay tín dụng đầu tư của Nhà nước áp dụng đối với các khoản giải ngân vốn tín dụng đầu tư của Nhà nước kể từ ngày 14/11.
Xét về mặt tổng thể thì lãi suất TDXK của Nhà nước vẫn thấp hơn lãi suất các NHTM,điều này giúp VDB có lợi thế về lãi suất TDXK hơn nhưng ở một số NHTM lớn tại một số thời điểm nhất định, các NHTM có thể huy được số lượng tiền gửi ngắn hạn lớn, đặc biệt là tiền gửi không kỳ hạn thì các NHTH có thể đưa ra chính sách lãi suất thấp hơn lãi suất TDXK của Nhà nước đối với một số khách hàng là rất dễ dàng.
Ngoài ra, thông qua chính sách lãi suất cho vay thấp để thu hút khách hàng lớn, tài chính mạnh và uy tín, các NHTM còn được hưởng các lợi ích từ các dịch vụ khác như dịch vụ thanh toán quốc tế, mua bán ngoại tệ, chuyển tiền…nên một số NHTM có thể chấp nhận giảm lợi nhuận từ chính sách lãi suất cho vay để tăng lợi nhuận từ chính sách dịch vụ. Điều này làm cho VDB có thêm cơ hội mở rộng phạm vi khách hàng nhưng cũng chính là thách thức trong việc giữ và thu hút khách hàng thông qua chính sách lãi suất.

b.Chính sách tiền tệ và ổn định lạm phát
Việt Nam đã kiên trì thực hiện mục tiêu ưu tiên kiềm chế lạm phát, giảm từ mức 18,13% năm 2011 xuống còn khoảng 6% năm 2013, thấp nhất trong 10 năm qua. Đây là một trong những thành tựu nổi bật trong điều hành giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô.
 Chính sách tiền tệ đã được điều hành theo hướng dẫn dắt thị trường, linh hoạt, trong đó trọng tâm nhất là ổn định giá trị VND, nghĩa là gắn với vấn đề lạm phát, tỷ giá hối đoái, đồng thời, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, bảo đảm an toàn cho hệ thống ngân hàng. Cùng với việc kết hợp với các công cụ của chính sách tài khóa, như giảm thuế, hỗ trợ lãi suất vay, chính sách tiền tệ đã tạo ra hiệu ứng tích cực trong quá trình tái cơ cấu, phân bổ dòng vốn vào khu vực kinh tế thực, khu vực ngành nghề cần ưu tiên.
c.Kim ngạch xuất khẩu tăng mạnh
Xuất khẩu tiếp tục tăng cao, tháng 11 năm 2013 kim ngạch xuất khẩu ước đạt 121 tỷ USD, tăng 16,2%, nhập siêu giảm mạnh, năm nay ước chỉ còn khoảng 500 triệu USD.Tính chung cả năm 2013, Việt Nam xuất siêu 863 triệu USD, bằng 0,7% tổng kim ngạch hàng hóa xuất khẩu, trong đó khu vực kinh tế trong nước nhập siêu 13,1 tỷ USD; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài xuất siêu gần 14 tỷ USD.
Hoạt động xuất nhập khẩu diễn ra ngày càng sôi động làm cho nhu cầu về vốn cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu là rất cần thiết.Đây là những tín hiệu khả quan cho tình hình xuất khẩu của các doanh nghiệp vay vốn TDXK tại NHPT.Và đây cũng là điểm thuận lợi giúp VDB thực hiện hoạt động cấp tín dụng xuất khẩu đạt hiệu quả hơn cả trên phương diện cho vay và thu hồi vốn vay.

2.Khó khăn

a.Tăng trưởng GDP năm 2013 chỉ đạt mức 5,42%
Tổng cục Thống kê vừa chính thức công bố, GDP năm 2013 ước tính tăng 5,42% so với năm 2012. Trong đó, quý I tăng 4,76%; quý II tăng 5,00%; quý III tăng 5,54% và quý IV tăng 6,04%.Tình hình kinh tế có tác động đến việc NHPT tiếp cận và huy động nguồn vốn từ các tổ chức kinh tế.Hơn nữa, một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong thời gian tới của VDB là với vai trò ngân hàng chính sách phục vụ tăng trưởng kinh tế nên vấn đề tăng trưởng kinh tế không chỉ là khó khăn mà còn là nhiệm vụ quan trọng mà VDB cần thực hiện.
b.Bội chi ngân sách nhà nước năm 2013 là 5,3% GDP
Theo Tổng cục Thống kê, tỷ lệ bội chi NSNN năm nay ở mức 5,3% GDP, vượt mức 4,8% đã dự toán.Cụ thể, tổng thu NSNN năm 2013 ước tính đạt 790,8 nghìn tỷ đồng, bằng 96,9% dự toán năm.Tổng chi NSNN năm 2013 ước tính đạt 986,2 nghìn tỷ đồng, bằng 100,8% dự toán năm.
Do trong nguồn vốn của VDB chủ yếu là vốn ngân sách nhà nước cấp nên tình trạng bội chi đã ảnh hưởng đến quy mô nguồn vốn của VDB,trở thành vấn đề nan giải cho bài toán ngân sách 2014.
c.Thu hồi nợ vay tín dụng đầu tư gặp khó khăn
Hoạt động cho vay tín dụng đầu tư do Ngân hàng phát triển Việt Nam (VDB) thực hiện trong thời gian qua được khẳng định là một trong những công cụ quan trọng giúp Chính phủ điều tiết vĩ mô về kinh tế - xã hội hiệu quả. Tuy nhiên, để có nguồn vốn bù đắp vốn huy động và tiếp tục cho vay đầu tư thì công tác thu hồi và xử lý nợ vay tín dụng đầu tư đối với VDB là đặc biệt quan trọng, công tác này đang gặp nhiều khó khăn. 
 Ngoài ra, Việt Nam cũng tiếp tục đối diện với những nút thắt về nợ xấu, tháo gỡ khó khăn cho DN, cải cách doanh nghiệp nhà nước, quản lý đầu tư công và nợ công, hâm nóng trở lại thị truờng bất động sản, trong khi nhu cầu về nguồn lực để đáp ứng các nhiệm vụ chi quan trọng, cấp thiết về quốc phòng, an ninh, an sinh xã hội, khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh... ngày càng nhiều và cấp thiết.
a.Năng lực huy động vốn của VDB còn hạn chế
So với quá trình từ khi thành lập đến nay, VDB đã có nhiều thay đổi trong hoạt động huy động vốn.Tuy nhiên, về các hình thức huy động vốn thì VDB vẫn theo các hình thức truyền thống mà chưa thể đa dạng sang các hình thức đang được thực hiện phổ biến ở các NHTM, đó là huy động tiền gửi trên thị trường. Nguồn huy động từ vốn ngân sách và phát hành trái phiếu Chính phủ là nguồn có ý nghĩa rất lớn đối với VDB nhưng lại là nguồn không ổn định.Lượng huy động vốn này phụ thuộc rất lớn vào tình hình kinh tế vĩ mô và năng lực pháp lý-tài chính của VDB.
b.Năng lực quản lý rủi ro
Có thể nói hiệu quả hoạt động của VDB bị đe dọa bởi tất cả các loại rủi ro trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ (rủi ro tín dụng, rủi ro lãi suất, rủi ro thanh khoản, rủi ro tỷ giá..). Tuy nhiên,hiện nay mọi nỗ lực cảu ngân hàng mới chỉ tập trung vào nghiên cứu và quản lý rủi ro tín dụng mà chưa quan tâm đến quản lý các loại rủi ro khác.Các chỉ tiêu nợ quá hạn,nợ xấu, tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu...chưa được tính toán theo chuẩn mực chung của các TCTD mà vẫn theo quy định riêng cảu ngân hàng nên kêt quả tính toán không phản ánh chính xác tình hình của ngân hàng.Công tác quản lý của VDB về bản chất là xử lý tổn thất chứ chưa quan tâm đến hạn chế tổn thất.
c.Năng lực của cán bộ ngân hàng
Chất lượng và số lượng luôn được nâng cao: Tại thời điểm bàn giao từ Quỹ HTPT, toàn hệ thống có gần 2.300 cán bộ, trong đó, CBVC có trình độ đại học, trên đại học chiếm khoảng 80%. Đến nay, toàn hệ thống có hơn 3.000 cán bộ, trong đó tỷ lệ CBVC có trình độ đại học, trên đại học chiếm hơn 90%. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả thành tựu đã đạt được trong thời gian qua, công tác cán bộ vẫn còn những tồn tại cần được giải quyết, củng cố về: đoàn kết, tư tưởng, đạo đức công vụ và chất lượng chuyên môn...
d.Chính sách tín dụng của ngân hàng
 Trong thời gian qua, có thể nói cơ chế chính sách tín dụng của NHPT thay đổi thường xuyên, liên tục đã có ảnh hưởng nhất định đến công tác tín dụng của các chi nhánh. Hiện nay, NHPT chưa xây dựng được trung tâm dữ liệu thông tin về khách hàng, chưa thiết lập được một cơ chế công bố thông tin đầy đủ về doanh nghiệp, dự án đầu tư vay vốn…Điều này dẫn đến sự thiếu hụt thông tin về khách hàng khi thẩm định, theo dõi quản lý tín dụng. Mặc dù NHPT là một tổ chức hoạt động ở lĩnh vực ngân hàng nhưng lại chưa kết nối thông tin với Trung tâm thông tin tín dụng của Ngân hàng Nhà nước (CIC), vì vậy các khoản nợ vay của khách hàng vay tại NHPT không thể hiện trong quan hệ tín dụng của khách hàng khi truy xuất thông tin từ CIC. Hiện tại, SGD II thực hiện khai thác thông tin từ CIC để phục vụ công tác thẩm định quản lý tín dụng, tuy nhiên tổ chức này cũng chưa phải là cơ quan định mức tín nhiệm doanh nghiệp một cách độc lập và hiệu quả, thông tin cung cấp còn đơn điệu, thiếu cập nhật.
-Hoàn thiện hệ thống pháp luật,chính sách tín dụng ĐTPT của nhà nước
Tiếp tục rà soát, hoàn thiện cơ chế, chính sách và các quy chế nghiệp vụ về tín dụng, đầu tư, bảo đảm tiền vay, ngoại hối, huy động vốn, kế toán và thanh toán…; nâng cao tính tự chịu trách nhiệm của từng bộ phận nghiệp vụ, từng cá nhân và người đứng đầu các đơn vị, tổ chức. Hoàn thiện mô hình hoạt động của VDB, ban hành Nghị định của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của VDB theo hướng tăng cường chức năng, nhiệm vụ và tính tự chủ của tổ chức này.
    Đề xuất xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật và văn bản hướng dẫn có liên quan để tăng cường tính pháp lý, tạo sự đồng bộ, nhất quán và hoàn chỉnh của hệ thống chính sách và pháp luật về tín dụng ĐTPT của Nhà nước.
    Tín dụng ĐTPT của Nhà nước được hoạch định bảo đảm bình đẳng giữa các thành phần kinh tế; hỗ trợ có hiệu quả phục vụ mục tiêu tăng trưởng, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; đa dạng hoá các hình thức hỗ trợ để đáp ứng nhu cầu đa dạng của các nhà đầu tư, chuyển dần từ ưu đãi về lãi suất sang ưu đãi về mức hỗ trợ, thời hạn hỗ trợ…
   -Tăng cường công tác Marketing về ngân hàng.
    Triển khai đa dạng các hoạt động tuyên truyền, giới thiệu chính sách tín dụng ĐTPT của Nhà nước qua website, hội thảo, diễn đàn về đầu tư - tài chính (trong nước và khu vực). Tổ chức hội nghị khách hàng hàng năm để tuyên truyền về chính sách tín dụng ĐTPT và  lấy ý kiến đóng góp của khách hàng về quá trình thực thi chính sách tín dụng ĐTPT. Xúc tiến sự hiện diện của VDB tại các thị trường khu vực và quốc tế nhằm tăng cường khả năng hợp tác, huy động các nguồn lực và tiếp nhận chuyển giao công nghệ.
  -Đơn giản hóa và công khai quy trình cho vay.
    Rà soát loại bỏ một số thủ tục không cần thiết, hoàn thiện quy trình theo hướng đơn giản dễ hiểu và dễ thực hiện; quy định cụ thể trình tự và thời gian thực hiện các bước của quy trình vay vốn. Khi quy trình thay đổi, cần có sự tập huấn cho Chi nhánh về việc vận dụng quy trình mới ban hành; công khai quy trình cho vay và phải phổ biến cho các khách hàng biết khi quy trình thay đổi; đồng thời Ngân hàng cần tổ chức cung cấp các dịch vụ hỗ trợ cho khách hàng trong việc vay vốn,
    Ngoài việc cải tiến quy trình, thủ tục cho vay của nội bộ mình, VDB cần phối hợp với các ngành nhằm cải cách các thủ tục liên quan để giảm thiểu các thủ tục cho khách hàng. Có như vậy mới kích thích các nhà đầu tư tham gia đầu tư vào những án mà nhà nước cần khuyến khích đầu tư.
-Nâng cao chất lượng thẩm định dự án.
    Hiện đại hoá quy trình thẩm định dự án, ứng dụng phần mềm phục vụ cho công tác thẩm định, phân tích tài chính, truy cập thông tin, triển khai hệ thống này đến các cấp quản lý tín dụng cần thiết. Bố trí những cán bộ có trình độ, kinh nghiệm và có đạo đức trong việc thẩm định dự án. Thẩm định dự án có nhiều lĩnh vực khác nhau, cán bộ thẩm định cần tham khảo và tìm hiểu thông tin dự án có cùng lĩnh vực đầu tư để đưa ra các nhận định chính xác. Thẩm định dự án không chỉ thẩm định cho vay mà cần tái thẩm định sau cho vay để đánh giá hiệu quả của dự án đầu tư, từ đó rút ra kinh nghiệm cho việc thực hiện các dự án sau được tốt hơn. Tổ chức đào tào, đào tạo lại cán bộ thẩm định về chuyên môn nghiệp vụ.
-Đẩy mạnh công tác thu hồi nợ và xử lý nợ.
    Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát các dự án; hợp tác chặt chẽ với các chủ đầu tư để xử  lý nợ quá hạn. Kiểm  tra, giám sát việc sử dụng tiền vay là một việc làm cần thiết để phòng ngừa và ngăn chặn rủi ro tín dụng. Kiểm tra, giám sát chặt chẽ, thường xuyên sẽ giúp VDB phát hiện kịp thời những biểu hiện sai phạm của doanh nghiệp như sử dụng vốn sai mục đích, tẩu tán tài sản, âm mưu lừa đảo, đồng thời giúp VDB luôn bám sát tình hình hoạt động thực tế của dự án, nắm được những vấn đề mới nảy sinh trong quá trình thực hiện dự án của doanh nghiệp để có biện pháp đối phó kịp thời.
    Trong quá trình kiểm tra nếu phát hiện thấy doanh nghiệp gặp khó khăn không thể thực hiện việc trả nợ theo đúng hợp đồng, VDB có thể áp dụng một hoặc kết hợp một trong nhiều biện pháp như: tư vấn, hướng dẫn cho doanh nghiệp trên nhiều khía cạnh nhằm tác động đến khả năng tạo ra và thu được lợi nhuận; đề nghị doanh nghiệp quản lý chặt chẽ ngân quỹ chi tiêu, tổ chức lại hệ thống sản xuất kinh doanh, thay đổi máy móc thiết bị và công nghệ. Nếu xét thấy việc áp dụng các biện pháp khai thác là không thuận lợi và không có hy vọng thu hồi được nợ thì VDB sẽ áp dụng biện pháp thanh lý để xử lý các khoản nợ khó đòi. Nếu do nguyên nhân khách quan, bất khả kháng (tai nạn, thiên tai, trộm cắp) khiến doanh nghiệp không trả được nợ thì VDB có thể xem xét gia hạn hoặc điều chỉnh hợp đồng cho vay tương ứng với kỳ hạn có thể thu tiền của doanh nghiệp và theo đúng quy trình của VDB.
    VDB cần phối hợp chặt chẽ với các Bộ, ngành, Tổng công ty và Chính quyền địa phương để được hỗ trợ các biện pháp thu hồi nợ. Thực hiện thường xuyên việc phân loại nợ hàng quý, với từng tiêu chí cụ thể để tìm biện pháp cụ thể cho từng dự án có nợ quá hạn.
-Xây dựng hệ thống kiểm soát rủi ro.
    Để sử dụng nguồn vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước có hiệu quả và đảm bảo tính an toàn, lành mạnh trong hoạt động cấp tín dụng, cần xây dựng một mô hình quản lý rủi ro tín dụng phù hợp với VDB. Trên cơ sở những nguyên tắc Basel về quản lý nợ xấu và đặc
thù của hoạt động tín dụng ĐTPT tại VDB, những định hướng có thể áp dụng trong xây dựng hệ thống quản trị rủi ro tín dụng như sau: Thực hiện phân tách chức năng bán hàng, chức năng thẩm định, quản lý rủi ro tín dụng và chức năng quản lý nợ trong hoạt động cấp tín dụng cho các doanh nghiệp; Phân định rõ chức năng, nhiệm vụ và trách nhiệm pháp lý của bộ phận quan hệ khách hàng, quản lý rủi ro tín dụng và quản lý nợ; Tiêu chuẩn hóa cán bộ theo dõi rủi ro tín dụng để đáp ứng các yêu cầu của nguyên tắc Basel, theo đó, cần xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý rủi ro tín dụng có kinh nghiệm, kiến thức và khả năng nhanh nhạy khi xem xét, đánh giá các đề xuất tín dụng; Xây dựng cơ chế trao đổi thông tin hiệu quả, đảm bảo sự liên lạc thường xuyên, liên tục và cập nhật kịp thời các thông tin trọng yếu giữa các bộ phận chức năng trong hoạt động cấp tín dụng; Nâng cao tính thực tiễn và khả năng đánh giá chính xác của hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ, thực hiện xếp hạng tín dụng theo định kỳ và duy trì một cách liên tục để làm cơ sở trong xây dựng chính sách khách hàng về giới hạn tín dụng, áp dụng hình thức bảo đảm tiền vay thích hợp, các định hướng tín dụng với từng khách hàng.
-Đẩy mạnh việc ứng dụng thông tin công nghệ.
    Tiếp tục nâng cấp hạ tầng công nghệ thông tin với các giải pháp kỹ thuật và phương thức hiện đại phù hợp với trình độ phát triển của hệ thống ngân hàng Việt Nam cũng như các chuẩn mực, thông lệ quốc tế. Phát triển, ứng dụng các mô thức quản lý nghiệp vụ ngân hàng cơ bản theo hướng hiện đại, tự động hoá và được tích hợp trong hệ thống quản trị ngân hàng hoàn chỉnh và tập trung (triển khai core-banking). Tăng cường hệ thống an toàn, bảo mật thông tin, dữ liệu và an ninh mạng; sớm triển khai mạng thông tin nội bộ trong toàn hệ thống VDB.
-Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
    Hoàn thiện hệ thống chính sách quản lý nguồn nhân lực và thực hiện khuyến khích lao động có hiệu quả. Tuyển dụng, bố trí, luân chuyển, đánh giá, đề bạt và đãi ngộ cán bộ dựa trên cơ sở năng lực, trình độ thực tế của cán bộ và tính chất, yêu cầu của công việc. Hoàn thiện các quy chế về quyền và nghĩa vụ của cán bộ. Thực hiện nguyên tắc dân chủ và minh bạch trong công tác cán bộ.
    Tăng cường và đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng trình độ quản lý và chuyên môn cán bộ các cấp. Tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ cập nhật kiến thức, học tập nâng cao trình độ chuyên môn, khuyến khích sáng tạo, động viên sự tự thân học tập của cán bộ, tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ tham gia các khóa đào tạo ngắn và dài hạn bên ngoài như học ngoại ngữ, văn bằng 2, sau đại học...
Xây dựng kế hoạch hợp tác đào tạo, trao đổi, nghiên cứu với các ngân hàng, tổ chức tài  chính có uy tín trong nước và trên thế giới để tạo điều kiện cho đội  ngũ cán bộ được tiếp cận với  những công nghệ  hàng  mới, học hỏi những kinh nghiệm quản trị, điều hành của các tổ chức này.

 

V. Tóm tắt đề án tái cấu trúc VDB

Theo định nghĩa của Ngân hàng Thế giới (WB, 1998), tái cấu trúc ngân hàng bao gồm một loạt các biện pháp được phối hợp chặt chẽ nhằm duy trì hệ thống thanh toán quốc gia và khả năng tiếp cận các dịch vụ tín dụng, đồng thời xử lý các vấn đề còn tồn tại trong hệ thống tài chính là nguyên nhân gây ra khủng hoảng. Trên một cách tiếp cận khác, Claudia Dziobek và Ceyla Pazarbasioglu cho rằng tái cấu trúc ngân hàng là biện pháp hướng tới mục tiêu nâng cao hiệu suất hoạt động của ngân hàng, bao gồm phục hồi khả năng thanh toán và khả năng sinh lời, cải thiện năng lực hoạt động của toàn hệ thống ngân hàng để làm tròn trách nhiệm của một trung gian tài chính và khôi phục lòng tin của công chúng1. Trong đó, đối tượng của tái cấu trúc hệ thống ngân hàng thường được hiểu theo hai nghĩa rộng và hẹp. Xét theo nghĩa rộng, tái cấu trúc hệ thống ngân hàng là quá trình tái cấu trúc tất cả các bộ phận cấu thành của hệ thống, bao gồm: (i) Ngân hàng trung ương (NHTW); (ii) Hệ thống ngân hàng thương mại (NHTM); (iii) Hệ thống ngân hàng chính sách xã hội và ngân hàng phát triển; và (iv) Hệ thống các tổ chức tín dụng (TCTD) vi mô. Xét theo nghĩa hẹp, tái cấu trúc hệ thống ngân hàng chỉ bao gồm việc giải quyết những vấn đề của một trong những cấu phần nói trên của hệ thống, hoặc thậm chí là một ngân hàng có nguy cơ đổ vỡ ngay trong điều kiện hệ thống ngân hàng vẫn đang hoạt động hiệu quả (Waxman, 1998).
Kinh nghiệm của nhiều nền kinh tế cho thấy, các quốc gia thường chỉ tiến hành tái cấu trúc khi có những vấn đề điển hình nổi lên trong nền kinh tế nói chung và trong hoạt động của các NHTM nói riêng.
Trên tinh thần của Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XI, tái cấu trúc toàn bộ hệ thống ngân hàng- tài chính là một trong ba trụ cột của quá trình tái cơ cấu nền kinh tế. Việc cụ thể hóa chủ trương trên đã được thực hiện thông qua đề án “Cơ cấu lại hệ thống các TCTD giai đoạn 2011- 2015” ban hành kèm theo Quyết định số 254/QĐ-TTg. Theo đó, ngày 28/3/2012, Văn phòng Chính phủ đã có văn bản số 118/TB-VPCP thông báo kết luận của Phó Thủ tướng Chính phủ Vũ Văn Ninh tại buổi làm việc với Ngân hàng Phát triển Việt Nam. Trong đó, Phó Thủ tướng yêu cầu Ngân hàng Phát triển Việt Nam khẩn trương hoàn thiện Đề án tái cấu trúc và Chiến lược phát triển Ngân hàng Phát triển đến năm 2020, báo cáo Bộ Tài chính để trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
Với yêu cầu cần đẩy nhanh quá trình hoàn thiện Đề án tái cấu trúc, theo đó, Ngân hàng Phát triển Việt Nam cần lưu ý đánh giá thực trạng về cơ chế, chính sách về tín dụng đầu tư, tín dụng xuất khẩu của nhà nước và mô hình hoạt động của Ngân hàng Phát triển hiện nay; nghiên cứu mô hình hoạt động của các ngân hàng phát triển các nước, rút ra được những kinh nghiệm phù hợp có thể vận dụng được với điều kiện của Việt Nam để có cơ sở xây dựng các Đề án tái cấu trúc và Chiến lược phát triển của Ngân hàng Phát triển trong giai đoạn tới, phù hợp với sự phát triển của đất nước trong từng thời kỳ.
Đồng thời, Ngân hàng Phát triển Việt Nam cũng cần xác định rõ vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ của Ngân hàng Phát triển trong hệ thống tài chính nhà nước và ngân hàng của Việt Nam; cần làm rõ Ngân hàng Phát triển vừa thực hiện chức năng của ngân hàng vừa có tính đặc thù riêng; trên cơ sở đó kiện toàn bộ máy tổ chức của Ngân hàng, nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn, bảo đảm đủ điều kiện thực hiện tốt nhiệm vụ Chính phủ giao; Xác định cụ thể lĩnh vực hoạt động, phương thức hỗ trợ đối với Ngân hàng Phát triển; xây dựng lộ trình thực hiện các Đề án gắn với mục tiêu và kết quả đạt được đối với từng giai đoạn.
Phó Thủ tướng giao Bộ Tài chính phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và các cơ quan liên quan rà soát lại một số nội dung của Nghị định số 75/2011/NĐ-CP gây bất cập trong quá trình thực hiện; Danh mục các đối tượng vay vốn tập trung cho các lĩnh vực, dự án cần thiết phải có sự ưu tiên hỗ trợ của Nhà nước; Thẩm định đề án tái cấu trúc và Chiến lược phát triển của Ngân hàng Phát triển đến năm 2020 trình Thủ tướng Chính phủ; Nghiên cứu cơ chế hỗ trợ cho Chương trình trọng điểm nhà nước…
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính và các cơ quan liên quan nghiên cứu, hướng dẫn Ngân hàng Phát triển thực hiện phân loại nợ, xử lý rủi ro, hoạt động về ngoại hối, phù hợp với tính chất hoạt động đặc thù của Ngân hàng này và quy định của pháp luật hiện hành.
Cũng trong văn bản này, Phó Thủ tướng yêu cầu Ngân hàng Phát triển Việt Nam thực hiện linh hoạt, đồng bộ các  giải pháp, phấn đấu hoàn thành kế hoạch năm 2012 về tín dụng đầu tư, tín dụng xuất khẩu của Nhà nước và các nhiệm vụ mà Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã giao.
Theo kế hoạch, VDB sẽ điều hành kế hoạch giải ngân vốn vay tín dụng một cách công khai; trong đó dành ưu tiên cho nhóm dự án, chương trình trọng điểm của Chính phủ. Tiếp đến là các dự án hoàn thành, đưa vào sử dụng trong năm 2012, đặc biệt là vào hai quý đầu năm. VDB sẽ dành tỷ lệ vốn nhất định cho các dự án theo lãi suất thỏa thuận đã được Thủ tướng Chính phủ giao.
Đặc biệt, VDB đề ra mục tiêu đẩy mạnh quản trị rủi ro nhằm khẩn trương xử lý các khoản nợ xấu và tăng cường kiểm tra hoạt động của hệ thống, kiểm tra trước – trong – sau quá trình sử dụng vốn vay. Đây là những biện pháp cấp bách nhằm ngăn chặn rủi ro, đảm bảo hiệu quả, tiến độ của dự án.


Comments

Popular posts from this blog

Gà rim mật ong

Phương pháp tính chỉ số chứng khoán và một số chỉ số chứng khoán tiêu biểu

Phân tích đầu tư chứng khoán: Công ty cổ phần Vĩnh Hoàn VHC