Đề tài môn ngân hàng phát triển: Dự án thủy điện Sơn La




DỰ ÁN THỦY ĐIỆN SƠN LA


I.Giới thiệu chung về dự án
1.  Giới thiệu chung
Nhà máy thủy điện Sơn La  nhà máy thủy điện nằm tại tại xã Ít Ong, huyện Mường La, tỉnh Sơn La, Việt Nam. Nhà máy được khởi công xây dựng vào ngày 2 tháng 12 năm 2005. Sau 7 năm xây dựng, thủy điện Sơn La được khánh thành vào ngày 23 tháng 12 năm 2012, sớm hơn kế hoạch 3 năm, trở thành nhà máy thủy điện lớn nhất Việt Nam và cả khu vực Đông Nam Á.
Dự án Thủy điện Sơn La là bậc thang thứ 2 nằm trên sông Đà (sau Thủy điện Lai Châu khởi công ngày 22/12/2010 và là bậc trên của Thủy điện Hòa Bình).
2. Các dự án liên quan
+ Dự án xây dựng công trình thủy điện do Tập đoàn Điện lực Việt Nam làm chủ đầu tư với các hạng mục chính gồm: Đập dâng, đập tràn, tuyến năng lượng, nhà máy thủy điện, hệ thống truyền tải đấu nối vào lưới điện quốc gia.
+Dự án di dân tái định canh, định cư do Ủy ban Nhân dân các tỉnh Sơn La, Điện Biên, Lai Châu làm chủ đầu tư. Trong đó tổng số hộ dân phải di chuyển: 17.996 hộ chủ yếu tại 3 tỉnh Sơn La, Lai Châu và Điện Biên.
+Dự án các công trình giao thông do Bộ Giao thông Vận tải làm chủ đầu tư.
3. Mục tiêu của dự án
-      Cung cấp nguồn điện năng để phát triển kinh tế - xã hội, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nước nhà;
-      Nâng dần tần suất chống lũ trên dòng chính Sông Đà từ 125 năm lên 500 năm;
-      Cung cấp nước cho hơn 20 triệu người và hàng trăm nghìn hecta lúa, cây trồng vùng đồng bằng Bắc Bộ;
-      Thúc đẩy phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội vùng Tây Bắc;
-      Góp phần xóa đói, giảm nghèo, cải thiện đời sốn cho người dân 3 tỉnh Sơn La, Điện Biên và Lai Châu.
-      Ngoài ra, khi dự án Thủy điện Sơn La hoàn thành sẽ tạo thành một hệ thống giao thông dọc các tỉnh Tây Bắc thông qua hồ chứa Hòa Bình và hồ chứa Thủy điện Sơn La, tạo điều kiện phát triển nuôi trồng thủy sản, cải tạo khí hậu tiểu vùng dọc hồ chứa và phát triển du lịch sinh thái. Đây là một trong các dự án trọng điểm của quốc gia được Quốc hội giám sát kỹ và đánh giá đã triển khai thực hiện đúng tiến độ.
II.Chu trình dự án
Theo Nghị quyết của Quốc hội, tổ máy 1 phát điện vào năm 2012, hoàn thành toàn bộ nhà máy vào năm 2015; được hiệu chỉnh phát điện tổ máy 1 vào cuối năm 2010, hoàn thành công trình vào 2012. Theo đó tiến độ của dự án cụ thể như sau:
·        Giai đoạn 1: chuẩn bị dự án
   - Năm 1975: Các chuyên gia Thủy điện và công nghiệp Moscow, công ty Electricity and Power Distribution của Nhật Bản, Cty Designing Research and Production Shareholding của Nga và SWECO của Thụy Điển đã thực hiện những chuyến khảo sát đầu tiên.
- Năm 2001: dự án Thủy điện Sơn La được đưa ra Quốc hội khóa X thảo luận, gây ra nhiều tranh cãi về tính an toàn do mực nước thiết kế cao lại nằm trong khu vực có thể có động đất, lo ngại các tác động về môi trường sinh thái, an ninh quốc phòng. Do đó ngày 29/6/2001, dự án Thủy điện Sơn La được Quốc hội thông qua chủ trương đầu tư, nhưng chưa quyết phương án xây dựng
- Tháng 12/2002: Báo cáo nghiên cứu khả thi đã được Nghị quyết tại kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa XI (tháng 12/2002) thông qua với mục tiêu phát điện tổ máy số 1 vào năm 2012 và hoàn thành toàn bộ công trình vào năm 2015. Quốc hội yêu cầu Chính phủ chỉ đạo tiếp tục hoàn chỉnh quy hoạch bậc thang thủy điện sông Đà.
- Năm 2003: EVN đã hoàn chỉnh Báo cáo nghiên cứu khả thi thực hiện phương án Sơn La thấp. Công tác tái định cư cũng được bắt đầu triển khai thực hiện
·        Giai đoạn 2: Khởi công, xây dựng công trình
- Tháng 12/2003: Những người thợ đầu tiên thuộc Tổng công ty Xây dựng Sông Đà có mặt tại công trường. để triển khai xây dựng mặt bằng công trường và đồng thời tận dụng thời gian chuẩn bị công trường trong 2 năm (2004-2005) để thi công các công trình dẫn dòng.
- Ngày 15/1/2004: Thủ tướng Chính phủ đã ra quyết định số 09/QĐ-TTg phê duyệt đầu tư Dự án Thủy điện Sơn La và thành lập Ban chỉ đạo Nhà nước về công trình TĐSL. Phó Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng trực tiếp làm Trưởng ban Chỉ đạo.
- Ngày 15/3/2004: Kênh dẫn dòng, hạng mục quan trọng có tính chất quyết định đến tiến độ công trình, được thi công.
- Ngày 13/11/2005: Tổng công ty Sông Đà đã nổ mìn, phá đê quai để đưa nước sông Đà vào kênh dẫn dòng.
- Ngày 2/12/2005: Khởi công xây dựng đồng thời ngăn sông đợt 1 Nhà máy Thủy điện Sơn La – công trình thủy điện lớn nhất Đông Nam Á . Trong quá trình thiết kế, thi công dự án đã được thay đổi nhiều so với phương án ban đầu như cao trình được hạ xuống từ khoảng 295 xuống còn 215-230, thay biện pháp đổ bê tông đập dâng bằng công nghệ dầm lăn với phụ gia khoáng là tro bay của Nhiệt điện Phả Lại, thay phương án từ nhà máy 8 tổ máy (8 x 300 MW) sang phương án nhà máy 6 tổ máy (6x400 MW); thay phương án máy biến áp 1 pha bằng máy biến áp 3 pha… Để tăng tính an toàn của đập các chuyên gia nước ngoài từ Nga, Châu âu, Trung Quốc đã được mời giám sát, đóng góp bổ sung thêm những tiêu chuẩn rất chặt chẽ…..
- Ngày 11/1/2008: Những khối bê tông đầm lăn đầu tiên đã chính thức được sản xuất.
- Ngày 23/12/2008: Ngăn sông Đà đợt 2. Theo kế hoạch, đến 3/1/2009 mới tiến hành ngăn sông Đà đợt 2, nhưng trên cơ sở hội đủ các yếu tố về điều kiện thuỷ văn; đồng thời, công tác chuẩn bị của Chủ đầu tư và các nhà thầu cho việc ngăn sông đã hoàn tất, nên việc ngăn sông Đà đợt 2 đã được thực hiện sớm hơn 7 ngày so với kế hoạch.
- Ngày 15/5/2010: Đóng kênh dẫn dòng. Đến ngày 05/11/2010, hồ chứa đã tích nước đến cao trình 189,3m và đang điều tiết giữ mực nước không vượt cao trình thiết kế năm 2010 là 190m. Công tác xây lắp các hạng mục công trình đáp ứng yêu cầu phát điện tổ máy số 1 vào tháng 12/2010 và đảm bảo chống lũ năm 2011.
- Ngày 20/8/2010: Lắp đặt thành công rotor tổ máy số 1. Đây là mốc quan trọng để tiến tới chạy thử các hệ thống thiết bị phụ, đáp ứng phát điện tổ máy số 1 đúng tiến độ, vào cuối tháng 12/2010. Rotor tổ máy số 1 có trọng lượng nặng 1.000 tấn, đường kính 15,589m, chiều cao 2,816m - là kết cấu nặng nhất trong các thiết bị lắp đặt tại công trường và là rotor nặng nhất trong các nhà máy thủy điện của Việt Nam.
- Ngày 25/8/2010: Kết thúc quá trình đổ bê tông đầm lăn, đạt 2,7 triệu m3
·        Giai đoạn 3: vận hành tổ máy, đưa vào sử dụng
- Ngày 18/11/2010: Khởi động không tải tổ máy số 1
- Ngày 17/12/2010: Phát điện tổ máy số 1 lên lưới điện quốc gia
- Ngày 21/4/2011: Phát điện tổ máy số 2 lên lưới điện quốc gia
- Ngày 25/8/2011: Phát điện tổ máy số 3 lên lưới điện quốc gia
- Ngày 19/12/2011: Phát điện tổ máy số 4 lên lưới điện quốc gia
- Ngày 28/4/2012: Phát điện tổ máy số 5 lên lưới điện quốc gia
- Ngày 26/9/2012: Tổ máy 6 (tổ máy cuối cùng) của Nhà máy Thủy điện Sơn La đã hòa thành công vào điện lưới Quốc gia, sớm hơn 3 tháng so với dự kiến
- Ngày 23/12/2012, công trình Thủy điện Sơn La chính thức khánh thành trở thành đập thủy điện lớn nhất Đông Nam Á với cao độ đỉnh đập 228,1 m; dài 961,6 m; chiều rộng đáy đập 105 m; chiều rộng đỉnh đập 10 m. Dung tích hồ chứa thủy điện 9,26 tỷ m3, với tổng công suất lắp máy 2.400 MW, sản lượng điện bình quân hàng năm trên 10 tỷ kW, bằng gần 1/10 sản lượng điện của Việt Nam năm 2012
III. Những thuận lợi và khó khăn khi thực hiện dự án
1.      Thuận lợi
1.1 Có sự kết nối chặt chẽ  từ Ban chỉ đạo Nhà nước, đặc biệt là sự chỉ đạo của các Phó Thủ tướng. Bên cạnh đó, ông Thái Phụng Nê, Phó Ban chỉ đạo Nhà nước về công trình Thuỷ điện Sơn La, là người có kinh nghiệm nhiều năm và rất tâm huyết với công trình, là cầu nối giữa các nguyên thủ Nhà nước với công trình. Mặt khác, Dự án Thuỷ điện Sơn La phải thực hiện di dân trên 20 ngàn hộ trải rộng trên 3 tỉnh (diện tích lòng hồ 220km2). Phần việc này do bên Di dân tái định cư của 3 tỉnh thực hiện. Các bên thi đua để hoàn thành các phần việc của mình đúng với tiến độ được bên thi công công trình báo trước và thậm chí còn xong trước thời gian đã định. Như vậy, thông tin của Dự án, Chủ đầu tư và Ban Di dân tái định cư của ba tỉnh Sơn La, Điện Biên, Lai Châu được kết nối với nhau một cách khít khao. Kể cả giao thông tránh ngập (cầu Pá Uôn) cũng khớp được vào nhau, không để tình trạng làm hồ nước lên mà dân không có đường đi hoặc cầu chưa xong…Tất nhiên, khó có thể hoàn hảo, trọn vẹn theo ý tất cả. Nhưng nói chung, sự kết nối trong nội bộ Dự án cũng như sự kết nối với dự án giao thông, di dân - tái định cư ăn khớp với nhau nên không bị làm lãng phí thời gian phải chờ đợi nhau. Ban Quản lý Dự án Thuỷ điện Sơn La cũng đã được kinh qua quản lý nhiều công trình lớn và được EVN đầu tư nhiều về nhân sự và điều kiện vật chất. Về phía tổ hợp các nhà thầu thi công Thuỷ điện Sơn La (Tổng công ty Sông Đà, Lilama, Trường Sơn, Licogi), hiện nay, để thi công thuỷ điện thì có thể nói đó là những đơn vị tốt nhất, đã kinh qua nhiều công trình lớn như: Hòa Bình, Ialy, Sê San, Tuyên Quang… Họ có năng lực thực sự và đầu tư thực sự cho dự án này, đồng thời cũng rất có trách nhiệm với dự án này. Việc thu xếp vốn cho dự án cũng được chủ đầu tư thu xếp đầy đủ và là một trong những dự án có công tác giải ngân rất tốt.
1.2 Công tác ký hợp đồng mua thiết bị từ các nhà thầu nước ngoài (5 nhà thầu) được phối hợp tốt nên thiết bị được giao đúng ngày, đúng tháng, thậm chí khi yêu cầu giao sớm 6 tháng, họ cũng đáp ứng (như đáy của nhà máy). Với các thiết bị cơ khí thuỷ công khác, ta cũng chủ động được nhiều, như đường ống áp lực, cửa nhận nước, cần trục… Bên cạnh đó, việc vận chuyển các thiết bị siêu trường siêu trọng cũng chọn được nhà vận chuyển có khả năng thực sự (Công ty vận tải Đa phương thức).
1.3 Đội ngũ xây dựng công trình thủy điện Sơn La đã có nhiều kinh  nghiệm với các công trình thủy điện.
      Tổng công ty xây dựng sông Đà là đơn vị đảm nhiệm trách nhiệm thi công chính. Trong lĩnh vực xây dựng thủy điện công ty đã ghi dấu bởi nhiều công trình lớn nhỏ như công trình thủy điện Thác Bà rồi thủy điện Hòa Bình một trong những công trình lớn đánh và vẫn còn giá trị rất lớn cho tới hiện nay. Ngoài ra đội ngũ cán bộ xây dựng cũng không ngừng nỗ lực học hỏi để tiếp nhận các kĩ thuậ xây dựng mới và các công nghệ mới để công trình có thể tiến hành thi công nhanh, hiệu quả và tiết kiệm nhất. Cụ thể:
-      Tổng công ty Sông Đà đã nỗ lực huy động lực lượng thi công đủ để đáp ứng tốt nhất yêu cầu của Chủ đầu tư, chỉ huy công trường, cùng các nhà thầu khác làm tốt công tác chuẩn bị thi công công trình; đồng thời tận dụng thời gian chuẩn bị công trường 2 năm (2004-2005) thi công Cống dẫn dòng. Điều này đã làm nên một sự kiện chưa từng có, đó là thực hiện ngăn sông sớm hơn một năm so với yêu cầu của Quyết định đầu tư và Lễ khởi công công trình đồng thời cũng là Lễ ngăn sông (vào ngày 02/12/2005).
-      Trong qua trình thi công các kỹ sư đã mạnh dạn thực hiện công nghệ thi công RCC. Về công nghệ RCC: bê tông đầm lăn (RCC) đang là những công nghệ tiên tiến được áp dụng phổ biến trên thế giới. Tại nước ta, mới chỉ có rất ít các công trình áp dụng được công nghệ này tại các dự án thủy điện . Đập RCC là công nghệ đập bê tông nhưng được thi công như đập đất, sử dụng thiết bị vận chuyển, rải, san và đầm chặt bê tông có công suất lớn. Hỗn hợp bê tông có hàm lượng chất kết dính thấp và độ ẩm nhỏ được lèn chặt bằng máy đầm lu rung. Theo các chuyên gia xây dựng, công nghệ RCC đặc biệt hiệu quả khi áp dụng cho xây dựng đập bê tông trọng lực. Khối lượng bê tông được thi công càng lớn thì hiệu quả áp dụng công nghệ RCC càng cao. Việc lựa chọn phương án xây dựng đập bằng công nghệ RCC đem lại hiệu quả kinh tế cao hơn so với công nghệ CVC và đạt được tiến độ nhanh hơn nhiều do tăng được tốc độ đổ bê tông, giảm lượng tiêu thụ xi măng (chỉ từ 60-100 kg/m3 bê tông RCC), tận dụng được tro bay thải của các nhà máy nhiệt điện hoặc nguồn puzzolan sẵn có trong nước. Có thể nói đập Sơn La là một trong những đập lớn thế giới được thi công theo công nghệ bê tông RCC. Điều này đã chứng tỏ khả năng của những người thợ xây dựng công trình. Ngoài ra, việc áp dụng công nghệ mới cũng được các chuyên gia tư vấn đánh giá cao. Bởi những  khó khăn do thời tiết tại đây cực kỳ khắc nghiệt, địa hình đập thủy điện Sơn La rất phức tạp, phải bố trí lắp đặt tuyến băng tải uốn lượn dài hơn hai cây số. Chỉ có  sự nỗ lực, cố gắng, sáng tạo vượt lên trên tất cả những khó khăn đó những người thợ Sông Đà 5 mới có thể hoàn thành thi công công trình một cách suất sắc, đúng hẹn, đảm bảo mỹ thuật và chất lượng công trình. Đặc biệt hơn nữa, đây chính là thủy điện được đắp đập theo công nghệ bê tông RCC với cường độ rất cao.
2.       Khó khăn
2.1 Khó khăn trong việc xác định vị trí xây dựng
     Vị trí công trình thủy điện Sơn La nằm trên một đoạn sông khoảng 40 km từ tuyến Bản Tả (phía hạ lưu) đến tuyến Pa Vinh (thuộc xã Ít Ong, huyện Mường La). Công trình thủy điện Sơn La đã được dự định từ những năm 1980. Tuy nhiên công việc khảo sát lên kế hoạch phải kéo dài đến vài chục năm. Trong suốt 20 năm tìm kiếm địa điểm thích hợp để xây dựng đã có nhiều địa điểm được tìm ra nhưng lại không thể đáp ứng đủ các điều kiện về an toàn, chi phí. Đã có các nhà khoa học của Pháp, Trung Quốc cũng tiến hành vào công cuộc tìm kiếm địa điểm để xây dựng thụy điện Sơn La nhưng đều thất bại vì đây là khu vực có bề dày phong hóa quá lớn, tức là lớp đá dưới lòng sông đang chịu ảnh hưởng của thời gian, điều kiện thời tiết... Hơn nữa, lớp sỏi cuội ở tầng phủ và lớp cuội tảng lại quá dày, nếu đắp đập trên đó phải xử lý nhiều vấn đề sẽ rất tốn kém, lại không an toàn. Khó khăn như vậy, nên để xác định được địa điểm đặt nhà máy thủy điện Sơn La, riêng đoạn sông 30km ở Mường La đã phải xác định cả chục tuyến.
       Địa điểm đầu tiên được tìm ra là ở bản Bậu, xã Tạ Bú vào năm 1982. Tại khu vực bản Bậu, phải khảo sát 4 điểm có thể đắp đập. Tuy nhiên, tầng phong hóa ở khu vực này quá dày và rộng. Sau 4 năm trời khảo sát, tìm ra biện pháp khắc phục để xây đập ở đây vẫn không thể thành công vì khu vực bản Bậu lòng sông quá rộng, nếu đắp đập phải dài hơn 600 mét, như vậy việc xây đập và xử lý đập sẽ rất tốn kém.
      Địa điểm thứ hai được tìm ra là bản Tạ Bú, cách bản Bậu 10km. Riêng khu vực Tạ Bú phải khảo sát 3 tuyến, mất tổng cộng 5 năm trời. Khu vực Tạ Bú, nền đập có địa tầng khá tốt, phù hợp cho việc xây đập. Tuy nhiên, vai phải đập có tầng phong hóa sâu, gồm những lớp phủ sỏi cuội và lớp bazan rất dày và cyó một vết đứt gãy sâu chạy qua tuyến đập. Còn một nguyên nhân quan trọng nữa mà các kỹ sư địa chất phát hiện ra, đó là dãy núi đá vôi Pi Toong chạy dọc huyện Mường La có tầng địa chất rỗng, nhiều vết đứt gãy, tức là hiện tượng karts rất sâu. Ngoài ra ở khu vực này thực dân Pháp đã đào những đường hầm lớn, chạy dọc dãy núi để tìm vàng. Nếu đắp đập ở khu vực Tạ Bú, nước sẽ dâng cao và thấm vào lòng núi, hình thành những dòng sông ngầm tống nước về hạ lưu, như vậy, không những hồ sẽ mất một lượng lớn nước mà có thể tạo ra thiên tai cho vùng hạ lưu. Để chống thấm cho cả dãy núi đá vôi Pi Toong thì phải đào sâu vào lòng núi vài ngàn mét rồi xây tường bê tông như tường thành. Như vậy, số tiền bỏ ra sẽ vô cùng lớn mà hiệu quả lại không cao. 
Ngoài ra, nếu đắp đập ở Tạ Bú, cả thị trấn Mường La sẽ phải di chuyển, tạo ra một sự tốn kém không cần thiết.
       Cuối cùng thì khu vực Pá Vinh II được tìm ra. Địa điểm này hội tụ tương đối đầy đủ điều kiện để xây dựng công trình thủy điện lớn như thủy điện Sơn La. Đây là khu vực tương đối thấp nên chi phí xây dựng vận chuyển nguyên vật liêu sẽ tiết kiệm được rất nhiều. Ngoài ra công trình thủy điện thấp ít phải di dân tái định cư, lại có thể tiết kiệm dòng sông làm thêm một số thủy điện trên thượng nguồn khác.
2.2 Khó khăn trong công tác tái định cư
      2.2.1. Khối lượng dân di cư lớn, ban đầu người dân chưa thực sự ủng hộ việc tái định cư của dự án
       Theo Quy hoạch tổng thể di dân, tái định cư Dự án thủy điện Sơn La đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, tổng số dân di chuyển thuộc Dự án di dân, tái định cư thủy điện Sơn La là 20.340 hộ, 92.301 nhân khẩu. 17.996 hộ tại 3 tỉnh Sơn La, Lai Châu, Điện Biên. Trong đó, tỉnh Sơn La 12.584 hộ, 58.337 khẩu; tỉnh Điện Biên 4.459 hộ, 17.010 khẩu; tỉnh Lai Châu 3.297 hộ, 16.954 khẩu. Tổng số khu, điểm tái định cư tập trung của Dự án di dân, tái định cư thủy điện Sơn La 78 khu, 285 điểm, tái định cư xen ghép vào 38 bản thuộc 17 xã và tái định cư tự nguyện; bố trí tái định cư cho 20.477 hộ (gồm số dân di chuyển thuộc Dự án di dân, tái định cư thủy điện Sơn La và Dự án đường tránh ngập đường Mường Lay-Nậm Nhùn, giai đoạn 1). Đối với tỉnh Sơn La, tái định cư tập trung tại 54 khu, 237 điểm có tổng diện tích đất ở và đất sản xuất là 37.207 ha. Với tỉnh Điện Biên, tái định cư tập trung 11 khu, 11 điểm có tổng diện tích đất ở và đất sản xuất là 12.004 ha. Còn với tỉnh Lai Châu, tái định cư tập trung 13 khu, 37 điểm có tổng diện tích đất ở và đất sản xuất là 9.278,3 ha.
       2.2.2 Nhu cầu vốn cho công tác tái định cư lớn
       Tổng mức đầu tư Dự án di dân, tái định cư thủy điện Sơn La hơn 26.457 tỷ đồng, trong đó, nguồn vốn ngân sách Nhà nước đầu tư hơn 17.417 tỷ đồng, còn lại là nguồn vốn của Tập đoàn Điện lực Việt Nam gần 9.040 tỷ đồng. Quy hoạch tổng thể di dân, tái định cư Dự án thủy điện Lai Châu nhằm tạo điều kiện để đồng bào tái định cư sớm ổn định chỗ ở và đời sống, phát triển sản xuất, cuộc sống vật chất, tinh thần ngày càng tốt hơn nơi ở cũ.
2.3 Nguồn nhân lực
    2.3.1 Khó khăn về vấn đề an toàn cho người lao động:
    Thủy điện Sơn La một công trình thủy điện lớn bên cạnh đó qúa trình xây dựng bao gồm nhiều công đoạn phức tạp và được xây dựng ở nơi có địa thế không thuận lợi. Địa điểm xây dựng công trình thủy điện cao, ở nơi rừng núi và khó di chuyển. Đồng thời quá trình xây dựng luôn tiềm ẩn nhiều rủi ro vì khu vực xây dựng có thời tiết khắc nghiệt, địa hình lại hiểm trở.  Chính vì vậy mà công việc chứa đựng nhiều luôn gặp nhiều nguy hiểm, công tác đảm bảo an toàn lao động cũng gặp nhiều khó khăn.
2.3.2. Khó khăn về quy mô xây dựng.
 Mặc dù đơn vị thi công chính là Tổng công ty xây dựng sông Đà đã có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực này song thủy điện Sơn La là một công trình xây dựng rất lớn và chúng ta chưa có nhiều kinh nghiệm thực tiễn với những công trình lớn như vậy từ trước đến này. Do đó quá trình xây dựng chắc chắn sẽ gặp nhiều khó khăn.
2.4 .Nguồn vốn
2.4.1.Đòi hỏi nguồn vốn lớn:
Tổng mức đầu tư và nguồn vốn của dự án thủy điện Sơn  là 60.195,928 tỷ đồng. Trong đó: Dự án xây dựng công trình thủy điện Sơn La: 34.867,052 tỷ đồng( Chi phí xây dựng: 13.246,214 tỷ đồng; Chi phí thiết bị: 10.177,781 tỷ đồng; Chi phí quản lý và các chi phí khác: 10.337,050 tỷ đồng; Dự phòng: 1.106,007 tỷ đồng; Dự án di dân, tái định cư: 20.293,821 tỷ đồng. Dự án giao thông tránh ngập: 5.035,055 tỷ đồng, trong đó: Cầu Pá Uôn trên Quốc lộ 279: 677,772 tỷ đồng; Quốc lộ 12 và cầu Hang Tôm: 1.900,000 tỷ đồng; Đường tỉnh 107 tránh ngập thủy điện Sơn La: 1.635,793 tỷ đồng; Đường tỉnh 127 và cầu Lai Hà: 821,490 tỷ đồng. Với tổng số vốn lớn và bao gồm nhiều công trình hạng mục như vậy việc huy động được đủ nguồn vốn xây dựng là một khó khăn không hề nhỏ.
2.4.2.     Chi phí vốn cao
Các dự án thủy điện lại không được vay ưu đãi nên chi phí vốn vay nước ngoài cũng cao. Vì vậy, khi xây dựng Dự án thủy điện Sơn La, theo phương án ban đầu, kinh phí sẽ được huy động từ 3 nguồn: vốn ngân sách, vốn ngành điện tự đầu tư, còn lại là vốn vay trong và ngoài nước.
§  Với vốn ngân sách, đây là khoản đầu tư nằm trong phạm vi chương trình di dân tái định cư. Tổng mức hỗ trợ ngân sách cỡ 5.000 tỷ đồng. Về vốn tự tích lũy của Tổng công ty Điện lực Việt Nam (EVN), phần này được dự tính tương đương tới 30% tổng vốn đầu tư thuần, bao gồm một loạt các khoản như chênh lệch tăng giá điện, lợi nhuận chuyển sang đầu tư, vốn khấu hao... Theo tính toán của EVN, phần vốn này ước khoảng 9.000-12.000 tỷ đồng.
§  Với phần vốn vay, dự tính riêng cho xây dựng sẽ vay trong nước khoảng 4.000-6.500 tỷ đồng. Thời gian vay giới hạn từ năm 2006 đến 2012 và thời gian trả nợ từ năm 2007 đến năm 2018. Còn lại là vay nước ngoài, số này chiếm hơn 30% tổng mức đầu tư và sẽ được sử dụng để nhập thiết bị, chi phí cho tư vấn cũng như các khoản chi khác. Thời gian vay từ năm 2006 đến năm 2015 và sẽ trả nợ trong hơn 10 năm. 
§  Bên cạnh những nguồn vốn trên, chủ đầu tư dự kiến vào những năm cao điểm (2006-2007) sẽ phát hành trái phiếu công trình trong thời hạn 5 năm, với tổng giá trị trái phiếu phát hành dự kiến khoảng 1.200 tỷ đồng. Sau đó, đến khi vận hành từng tổ máy, toàn bộ nguồn thu từ bán điện sẽ được chuyển sang tái đầu tư.
       Do đây là công trình thủy điện không chỉ có công suất lớn nhất Việt Nam mà còn lớn nhất cả khu vực Đông Nam Á, công nghệ lại hiện đại đáp ứng đủ tiêu chuẩn kỹ thuật nên nguồn vốn rót vào nó là con số không hề nhỏ. Với nền kinh tế của chúng ta chưa thật sự mạnh , nhất là cả một giai đoạn xây dựng trong vòng 8 năm, áp lực của lạm phát suy thoái kinh tế làm cho dự án gặp rất nhiều khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn. theo Tổng Giám đốc EVN , trong những thời điểm khó khăn về thu xếp vốn, EVN đã phải chấp nhận “vay nóng” của Ngân hàng Phát triển Việt Nam với lãi suất cao; đồng thời tích cực làm việc với các ngân hàng thương mại để đảm bảo dự án không ngừng trệ vì thiếu vốn.
2.4.3       Áp lực giá cả tăng cao đẩy chi phí lên so với dự tính
Ban đầu mức đầu tư cho công trình khoảng 39 ngàn tỷ đồng, nay được điều chỉnh lên hơn 60 ngàn tỷ đồng. Nguyên nhân, 39 ngàn tỷ đồng là giá khi đưa vào tổng mức đầu tư từ năm 2002 và đây cũng là mức đầu chưa tính lãi vay (giá USD năm 2002 quy đổi tiền Việt chỉ bằng gần ½ thời điểm hiện tại). Còn khi nhập thiết bị về lúc nào thì trả lúc đó và cho đến bây giờ vẫn phải trả với giá USD là 20.800 VND (trượt giá USD). Mức điều chỉnh nữa là tiền lương. Vừa rồi, tổng mức đầu tư được điều chỉnh nhưng chủ yếu điều chỉnh về tái định cư và di dân. Với việc về đích trước thời hạn đã tiết kiệm được rất nhiều thứ, trong đó, theo tính toán sẽ làm lợi cho Nhà nước khoảng 1 tỷ USD. Điều này có thể thấy, chạy được sớm từ cuối năm 2012 thì bắt đầu từ năm 2013 trở đi sẽ có được sản lượng của cả 6 tổ máy và hàng năm có được 9-10 tỷ kWh (mức giá 5 cen-USD/1 kWh) tương đương 500 triệu USD/năm
2.5 Về công nghệ
        Điểm đặc sắc của công trình Thủy điện Sơn La là nhà máy được lắp đặt toàn bộ máy móc, thiết bị kỹ thuật thuộc thế hệ mới, tiến bộ nhất và ứng dụng các giải pháp kỹ thuật mới của thế giới để thi công, xây lắp nhằm đảm bảo chất lượng công trình thế kỷ, nâng cao năng suất lao động, rút ngắn thời gian, tiết kiệm chi phí hàng trăm tỷ đồng và giảm bớt hàng vạn ngày công lao động. Tiêu biểu là công nghệ bê tông đầm lăn (RRC) cho xây dựng đập bê tông trọng lực Thủy điện Sơn La có cường độ thi công trung bình 86.000m3/tháng, không những cho phép đổ bê tông nhanh hơn nhiều so với phương pháp đổ bê tông thông thường mà còn đảm bảo độ tin cậy, an toàn cao nhất trong công trình vĩnh cửu này. Đập thủy điện Sơn La dài gần một km từ bờ trái vắt ngang qua bờ phải nhằm chặn đứng dòng chảy của sông Đà, có bề rộng từ đáy đập 120 mét và phải đắp lên cao 138 mét. Công nghệ RRC theo trường phái "giàu chất kết dính" được áp dụng vì đập có khối lượng bê tông rất lớn (3 triệu m3 / 5,1 triệu m3 bê tông) của toàn bộ công trình. Do những ưu điểm như tỏa nhiệt nhanh, yêu cầu thi công liên tục, nên công nghệ RRC đã tạo điều kiện cho phép đưa tổ máy đầu tiên công suất 400 MW hòa lưới thành công năm 2010, tiết kiệm chi phí đầu tư khoảng 1.200 tỷ đồng. Tiếp đó, các tổ máy 2, 3, 4 có công suất 400 MW vào vận hành an toàn trong năm 2011. Tổ máy số 6 công suất 400 MW là tổ máy cuối cùng của dự án đã hòa lưới điện ngày 02/9/2012, trước thời hạn 3 tháng.
Tổng công ty Lắp máy Việt Nam (Lilama) được Chính phủ giao làm nhà thầu lắp thiết bị toàn bộ cho công trình Thủy điện Sơn La. Với tinh thần trách nhiệm cao, kỹ sư và công nhân kỹ thuật Lilama có trình độ tay nghề cao và giàu kinh nghiệm tổ chức làm việc mỗi ngày 3 ca, trong 24 tháng đa lắp đặt chính xác, an toàn 115.000 tấn máy, thiết bị kỹ thuật đồng bộ, đạt kỷ lục chưa từng có từ trước đến nay. Nhờ đó, cả 6 tổ máy Thủy điện Sơn La có công suất 400MW / tổ đều đi vào vận hành trước thời hạn.
Do công nghệ này còn chưa thực sự phổ biến rộng khắp tại Việt Nam, trình độ kỹ sư công nhân kỹ thuật đáp ứng đủ yêu cầu là không cao nên tạo ra trở ngại trong việc mất nhiều thời gian và chi phí để đào tạo lại cộng thêm việc phải thuê nhiều chuyên gia nước ngoài về hướng dẫn. Do đó chi phí để đầu tư cho công nghệ là một khoản tiền không hề nhỏ. Hơn nữa do công trình này được đánh giá là tầm quan trọng chiến lược của Việt Nam cả về kinh tế- chính trị nên để có sự gia nhập của các yếu tố nước ngoài cần phải hạn chế tối đa.
    Việc áp dụng công nghệ cũng phải mất nhiều thời gian nghiên cứu kỹ lưỡng để đảm bảo phù hợp với điều kiện địa lý, tự nhiên của Việt Nam.
2.6 Về thị trường tiêu thụ
   Cùng với tốc độ gia tăng dân số ngày càng cao, kinh tế xã hội của đất nước ngày càng phát triển , nhu cầu tiêu thụ điện của Việt Nam cũng tiếp tục gia tăng. Hiện nay nguồn cung ứng điện trong nước của chúng ta vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu điện năng vô cùng lớn, do đó để hạn chế việc nhập khẩu điện, Chính phủ Việt Nam không ngừng nỗ lực đề ra các giải pháp mục tiêu như đa dạng hóa các nguồn sản xuất điện nội địa, giảm dần sự phụ thuộc vào năng lượng hóa thạch bằng cách đa dạng hóa việc khai thác sử dụng các nguồn năng lượng có hiệu quả hơn, trong đó có thủy điện. Dự án thủy điện Sơn La là công trình trọng điểm quốc gia với công suất lắp đặt 2400 MW ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu điện năng đang thiếu hụt trầm trọng của nước ta. Dự án chính thức đi vào hoạt động từ 2010 và khánh thành vào 12/2012, cung cấp điện lên hệ thống điện quốc gia với sản lương trung bình hàng năm là 10,246 tỷ kWh, phần nào làm giảm đi việc thiếu điện vào những tháng cao điểm của mùa hè, góp phần phát triển kinh tế xã hội không chỉ cho Sơn La, vùng Tây Bắc nói riêng  mà còn cho cả nước nói chung. Tuy nhiên do chỉ nhằm mục đích đáp ứng nhu cầu điện trong nước nên tính cạnh tranh của nó không cao. Bởi thị trường điện ở Việt Nam hiện nay mang tính chất độc quyền cao, sản phẩm mà nhà máy sản xuất ra chỉ có thể bán lại cho EVN, điều này chưa thực sự tạo ra thị trường điện tương xứng với tiềm năng , quy mô, vị trí lớn nhất Đông Nam Á của thủy điện Sơn La. Bởi rõ ràng công suất điện năng của nó lớn nhất, là nguồn cung cấp điện lớn nhất cả nước nhưng giá bán điện cũng như khả năng gia nhập thị trường của các đơn vị sản xuất đều như nhau thì không thể tạo ra sự công bằng cạnh tranh ở đây.
2.7 Những khó khăn khác
Để dự án được thi công các nhà nghiên cứu, nhà khoa học đã phải mất 30 năm để nghiên cứu vị trí địa lý, đánh giá các tác động đến môi trường, chính trị, địa lý để tránh các tác động xấu có thể xảy ra như động đất,lũ lụt và phải đảm bảo để sao cho an toàn tuyệt đối cho công trình, hạ du và thủ đô Hà Nội. Đã có không biêt. bao nhiêu các phương án được đưa ra bàn bạc thảo luận trước quốc hội để quy hoạch sao cho có hiệu quả  và phải đến tận năm 2005 dự án mới chính thức được triển khai.
IV. Tác động của dự án
1. Tác động tích cực
1.1 Góp phần giảm thiểu tình trạng thiếu điện
       Công trình Thủy điện Sơn La đi vào hoạt động trước thời hạn 3 năm, đến thời điểm này đã cung ứng cho các ngành kinh tế, an ninh quốc phòng và nhu cầu của nhân dân hơn 11,5 tỷ kWh điện, góp phần giảm thiểu tình trạng thiếu điện gay gắt trong thời gian qua. Cả 6 tổ máy có tổng công suất 2400 MW chính thức đi vào hoạt động với sản lượng mỗi năm hơn 10,2 tỷ kWh điện sẽ góp phần quan trọng đảm bảo an toàn cung cấp điện cho hệ thống với giá thành thủy điện rẻ hơn giá thành nhiệt điện khí và than. Thủy điện Sơn La có tính cơ động rất cao, có thể đóng rất nhanh, giúp cho việc điều độ hệ thống điện của quốc gia tốt và an toàn hơn.
1.2 Góp phần chống lũ, cung cấp nước cho vùng hạ du
   Hiện trên sông Đà có đến 5 nhà máy thủy điện.
-Nhà máy thủy điện Hòa Bình.:1920MW
-Nhà máy thủy điện Sơn La:2400 MW
-Nhà máy thủy điện Lai Châu :1200 MW
-Nhà máy thủy điện Huội Quảng :520 MW
-Nhà máy thủy điện Bản Chát :180 MW.
5 bậc thang thủy điện này đã góp phần làm giảm bớt sự hung hãn của sông Đà mỗi khi mùa lũ về.Nhà máy thủy điện Sơn La đã nâng tần suất chống lũ của dòng chính Sông Đà từ 125 năm lên đến 500 năm.Ngoài ra,nhà máy thủy điện còn cung cấp nước cho hơn 20 triệu người và hàng trăm nghìn Hecta lúa,cây trồng vùng đồng bằng Bắc Bộ
1.3 Nâng cao trình độ công nghệ, tay nghề của ngành cơ khí Việt Nam
   Việc xây dựng công trình Thủy điện Sơn La cũng đã góp phần nâng cao trình độ công nghệ và tay nghề của ngành cơ khí Việt Nam, khi sử dụng hàng vạn tấn thiết bị thủy công, cẩu trục lớn. Công trình Thủy điện Sơn La còn là nơi đào tạo đội ngũ nhân lực cơ khí, lắp máy và vận hành các công trình điện. Nhiều bài học quý giá từ xây dựng công trình Thủy điện Sơn La đã được đúc kết để áp dụng vào việc xây dựng thủy điện Lai Châu, dự án thủy điện lớn nhất cuối cùng của đất nước. Thủy điện Sơn La cũng đã xây dựng 125 km đường giao thông trên địa bàn, 2 cầu dài 460 m bắc qua sông Đà và cầu vĩnh cửu Mường La dài 502 m cùng với hệ thống điện, giao thông liên lạc cho địa phương, góp phần nâng cao đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần cho đồng bào các dân tộc.
1.4 Góp phần rút ngắn khoảng cách giữa vùng núi phía Bắc và đồng bằng
     Nhờ có thủy điện Sơn La, Nhà nước đã đầu tư nâng cấp các tuyến đường bộ như: quốc lộ 6 (Hà Nội - Hòa Bình - Sơn La - Điện Biện); quốc lộ 43 (Hà Nội - Phú Thọ - Sơn La); quốc lộ 37 (Sơn La - Phù Yên - Yên Bái); quốc lộ 4G (Sơn La - Sông Mã - Điện Biên); quốc lộ 106 (Sơn La - thủy điện Sơn La - Yên Bái). Các tuyến tỉnh lộ, đường đến trung tâm các xã và cụm xã được nâng cấp. Nhà nước sẽ đầu tư 2 cảng Tà Hộc (Mai Sơn), Tạ Bú (Mường La); đồng thời, mở tuyến đường thủy để vận chuyển thiết bị từ Hòa Bình lên thủy điện Sơn La. Đây là điều kiện để phát triển du lịch đường thủy, thăm phong cảnh hồ Hòa Bình và các chợ phiên trên sông. Tổng Công ty Hàng không Việt Nam đang nâng cấp cảng sân bay Nà Sản, chất lượng tuyến hàng không Hà Nội - Nà Sản - Hà Nội sẽ được nâng lên
1.5 Tạo điều kiện cho Sơn La, Lai Châu, Điện Biên bố trí lại dân cư, lao động, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tổ chức lại cuộc sống, xây dựng nông thôn mới xã hội chủ nghĩa ở miền núi
   Để đồng bào các dân tộc có điều kiện cải thiện đời sống, từng bước tiếp cận với tiến bộ khoa học kỹ thuật và ý nghĩa hơn cả là để người dân tái định cư Thủy điện Sơn La đến nơi ở mới có cuộc sống ổn định, Chính phủ đã chính thức phê duyệt Dự án cung cấp điện lưới quốc gia cho đồng bào các dân tộc tỉnh Sơn La. Được thực hiện từ tháng 5/2012, dự án do Tổng công ty Điện lực Miền Bắc làm chủ đầu tư, Công ty Điện lực Sơn La trực tiếp quản lý và thực hiện dự án. Đây là dự án điện nông thôn lớn nhất từ trước đến nay được Thủ tướng Chính phủ cho phép áp dụng cơ chế vốn: 85% nguồn ngân sách, 15% nguồn vốn từ Tập đoàn Điện lực Việt Nam. Tổng mức đầu tư dự án khoảng 600 tỷ đồng, nhằm xây dựng 542 km đường dây 35 kV và 22 kV; xây mới 218 trạm biến áp 3 pha, tổng công suất 11.295,5 kVA; xây dựng 875 km đường dây 0,4 kV; lắp đặt 30.157 công-tơ 1 pha; đấu nối sau công-tơ cho mỗi hộ gia đình một bảng điện, một bóng đèn và dây điện.
      Tỉnh đã chỉ đạo Ban quản lý dự án di dân của tỉnh và các huyện có dự án tiếp tục đẩy nhanh tiến độ thi công hoàn thiện các hạng mục hạ tầng cơ sở như đường giao thông, điện, nước sinh hoạt. Đặc biệt  là công tác thu hồi và giao đất sản xuất, chuyển giao khoa học kỹ thuật, công tác khuyến nông, khuyến lâm, chỉ đạo triển khai các mô hình sản xuất canh tác trên đất dốc, mô hình trồng tre lấy măng, trông cây ăn quả, chăn nuoi đại gia súc, trồng rau sạch, rau an toàn, dự án nuôi trồng thủy sản trên lòng hồ.. đến nay toàn tỉnh  đã hướng dẫn cho 5.484/9.853 hộ lập phương án sản xuất, phê duyệt và giải ngân vốn hỗ trợ sản xuất kịp thời để các hộ dân tái định cư sớm ổn định đời sống, sản xuất.
1.6 Tác động tích cực đến sự phát triển du lịch.
    Công trường thủy điện Sơn La là công trường thủy điện lớn nhất Đông Nam Á, mặt bằng công trường rộng 2.070 ha có nhiều đồi núi đan xen. Tính hấp dẫn do đặc điểm và quy mô công trường sẽ thu hút nhiều du khách trong và ngoài nước đến tham quan.
     Hồ thủy điện Sơn La được xây dựng là điều kiện thuận lợi để phát triển du lịch đi thuyền trên mặt hồ, thăm những khu rừng nguyên sinh với thảm động thực vật phong phú ở vùng lân cận.
       Các điểm tái định cư của người dân được xây dựng theo mô hình nông thôn mới nhưng giữ nguyên bản sắc văn hóa của các dân tộc, sẽ tạo ra các điểm du lịch văn hóa, làng nghề rất hấp dẫn.
     Do tính hấp dẫn và ảnh hưởng của thủy điện Sơn La, nhiều doanh nghiệp đầu tư tái tạo, khai thác các tiềm năng du lịch sẵn có của tỉnh. Hiện đã có các dự án lớn như: đầu tư khu đô thị du lịch nghỉ dưỡng Mộc Châu, khu du lịch hồ Tiền Phong (Mai Sơn), khu du lịch Chiềng Ngần (thị xã), khu du lịch Ngọc Chiến (Mường La)…
2. Tác động tiêu cực
2.1  Vấn đề môi trường:
      Nguy cơ gây thảm hoạ môi trường nếu có rủi ro vỡ đập: Hồ chứa nước Thủy điện Sơn La sẽ làm ngập một diện tích đất lớn (Sơn La cao khoảng 40.600 ha, Sơn La thấp khoảng 18.650 ha), kéo theo các tổn thất về rừng, đa dạng sinh học, khoáng sản, di sản văn hoá, lịch sử và hạ tầng cơ sở hiện có. Diện tích rừng bị ngập khoảng 2.500 - 3.100 ha, chiếm khoảng 7,02 - 11,2 % tổng diện tích đất ngập. Hệ thực vật ở vùng có mức đa dạng sinh học trung bình (11 loài/50ha). Hệ động vật có 44 loài được liệt vào loại quý hiếm, có giá trị kinh tế, nhưng số lượng cá thể còn rất ít. Do bị ngập, địa bàn cư trú của một số động vật hoang dã sẽ bị thu hẹp hoặc mất hẳn, thành phần thuỷ sinh có xu hướng giảm về số loài. Việc tái định cư có thể tạo điều kiện cho phát triển lâm nghiệp vùng ven hồ và có thể thu hút các giống loài quay trở lại, nhưng những tác động tiêu cực tới đa dạng sinh học là rất lớn.
     Sự hình thành hồ chứa sẽ ảnh hưởng đến số lượng lớn dân cư, tác động tới quy hoạch lãnh thổ, làm nảy sinh những vấn đề môi trường đô thị như: cấp nước, vệ sinh, ô nhiễm không khí, đất nước, rác thải, nhà ở và các dịch vụ khác...
     Hàng loạt vấn đề môi trường nghiêm trọng nảy sinh trong quá trình chuẩn bị và xây dựng công trình như: ô nhiễm, suy thoái môi trường không khí do nồng độ bụi tăng vượt tiêu chuẩn cho phép từ 8-300 lần, tải lượng khí độc (CO, NO, SO2,...) lên tới vài nghìn mg/m3/ngày đêm. Lượng chất rắn lơ lửng trong nước lớn, ô nhiễm dầu mỡ, nước thải sản xuất từ các xưởng vượt vài chục lần so với chuẩn cho phép.
2.2  Vấn đề hệ sinh thái:
      Sau khi Nhà máy thủy điện Sơn La được xây dựng và đưa vào hoạt động thì cảnh quan thiên nhiên ở khu vực này thay đổi rõ rêt. Diện tích rừng bị ngập khoảng 2.500 - 3.100 ha (chiếm khoảng 7,02 - 11,2% tổng diện tích đất ngập) sẽ làm thay đổi đáng kể cảnh quan thiên nhiên khu vực này.
      Do tác động điều hoà dòng chảy giữa mùa lũ và mùa cạn, chế độ thuỷ văn và thuỷ lực của dòng sông sẽ thay đổi rất khó xác định, lưu lượng điều tiết sau khi đỉnh lũ qua đi sẽ làm cho mực nước sông duy trì ở mức cao lâu hơn, gây tác hại đối với đê sông. Các bãi ven sông cũng ngập lâu hơn, ảnh hưởng tới sản xuất và sinh hoạt của cụm cư dân ngoài đê...
     Trong mùa cạn, lượng nước tăng lên hơn hai lần so với trước đây, làm xói các bìa và lòng sông, mất các diện tích canh tác của các bãi hai bờ sông... Thực tế cho thấy, dùng hồ nước để cắt lũ, nhưng khi vượt quá một giới hạn nào đó sẽ xảy ra nghịch lý: cắt được lũ càng lớn, hồ có dung tích lớn sẽ tạo ra một cơn lũ càng to hơn nữa. Ngoài ra, Thuỷ điện Sơn La gây ra những biến động làm thay đổi hệ sinh thái ở hạ du đến cửa sông ven bờ biển, như sự xâm nhập mặn, sự di cư các loài cá, sự thay đổi về chất lượng và mực nước ngầm, ảnh hưởng tới rừng ngập mặn ven bờ, các rạn san hô...
2.3  Vấn đề an sinh
     Đối với 90.000 người dân thuộc ba tỉnh Sơn La, Lai Châu, Điện Biên phải di dời khỏi khu vực Thủy điện Sơn La, thì thảm họa đã đến với họ ngay từ khi công trình khởi công cuối năm 2005. Người dân đã phải rời bỏ nhà cửa ruộng vườn để sống cuộc đời tái định cư, thường là những chương trình đầy khiếm khuyết không làm hài lòng những di dân bị cưỡng bách.
     Vấn đề tái định cư vẫn chưa thể giải quyết xong khi mà cuộc sống của người dân vẫn chưa ổn định. Theo báo cáo số 177 của UBND tỉnh Sơn La thì đến hết tháng 6.2013, công tác DDTĐC Thuỷ điện Sơn La vẫn còn rất nhiều bất cập: Tại một số địa bàn, công tác hỗ trợ sản xuất, khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, đào tạo chuyển đổi ngành nghề vẫn chưa đạt hiệu quả; thậm chí một vài huyện còn chưa triển khai tập huấn khuyến nông cho người dân TĐC. Có những tuyến đường làm dở dang rồi bỏ đó, dân kêu trời đến mấy năm nay… tại trụ sở Ban quản lý Dự án DDTĐC huyện Mường La, tỉnh Sơn La, hàng chục người dân và cán bộ các bản chầu chực quanh trụ sở để đòi những quyền lợi của mình. Đã mấy năm nay, từ khi di dân đến nơi ở mới, họ mất hết ruộng, vườn để làm lòng hồ thuỷ điện. Cũng vì Nhà nước nợ tiền mà hơn nửa số dân trong bản mấy năm nay đều thuộc diện đói, nghèo …
2.4  Rủi ro có thể xảy ra
       Từ khi bắt đầu xây dựng đã lo ngại về sự an toàn của đập thủy điện này vì vị trí nằm trong vùng thường xảy ra động đất. Ngoài ra người ta còn lo ngại những vấn đề khác liên quan tới an ninh chính trị vì công trình nằm quá gần biên giới Trung Quốc. Năm 2002 khi Quốc hội thảo luận về dự án thủy điện Sơn La một đại biểu từng nói rằng nếu đập Sơn La bị vỡ thì một chiếc xe tăng nặng 4 tấn ở Sơn Tây sẽ bị thổi bay xuống hạ lưu trôi ra biển trong vòng nửa giờ, Thủ đô Hà Nội và toàn bộ đồng bằng Bắc bộ sẽ chìm sâu dưới nước.
.



Comments

Popular posts from this blog

Gà rim mật ong

Phương pháp tính chỉ số chứng khoán và một số chỉ số chứng khoán tiêu biểu

Phân tích đầu tư chứng khoán: Công ty cổ phần Vĩnh Hoàn VHC