Đề tài môn ngân hàng phát triển: Dự án thủy điện Sơn La
DỰ
ÁN THỦY ĐIỆN SƠN LA
I.Giới
thiệu chung về dự án
1. Giới thiệu chung
Nhà máy thủy điện Sơn La là nhà máy thủy điện nằm tại tại xã Ít Ong, huyện Mường La, tỉnh Sơn La, Việt Nam. Nhà máy được khởi
công xây dựng vào ngày 2 tháng 12 năm 2005. Sau 7 năm xây dựng, thủy điện Sơn La
được khánh thành vào ngày 23 tháng 12 năm 2012, sớm hơn kế hoạch 3 năm, trở
thành nhà máy thủy điện lớn nhất Việt Nam và cả khu vực Đông Nam Á.
Dự án Thủy điện Sơn La là bậc thang
thứ 2 nằm trên sông Đà (sau Thủy điện Lai Châu khởi công ngày 22/12/2010 và là
bậc trên của Thủy điện Hòa Bình).
2. Các dự án liên quan
+
Dự án xây dựng công trình thủy điện do Tập đoàn Điện lực Việt Nam làm chủ đầu
tư với các hạng mục chính gồm: Đập dâng, đập tràn, tuyến năng lượng, nhà máy thủy
điện, hệ thống truyền tải đấu nối vào lưới điện quốc gia.
+Dự
án di dân tái định canh, định cư do Ủy ban Nhân dân các tỉnh Sơn La, Điện Biên,
Lai Châu làm chủ đầu tư. Trong đó tổng số hộ dân phải di chuyển: 17.996 hộ chủ yếu tại 3 tỉnh
Sơn La, Lai Châu và Điện Biên.
+Dự
án các công trình giao thông do Bộ Giao thông Vận tải làm chủ đầu tư.
3. Mục tiêu của dự án
-
Cung cấp nguồn điện năng để phát triển
kinh tế - xã hội, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nước nhà;
-
Nâng dần tần suất chống lũ trên dòng
chính Sông Đà từ 125 năm lên 500 năm;
-
Cung cấp nước cho hơn 20 triệu người và
hàng trăm nghìn hecta lúa, cây trồng vùng đồng bằng Bắc Bộ;
-
Thúc đẩy phát triển kinh tế, văn hóa, xã
hội vùng Tây Bắc;
-
Góp phần xóa đói, giảm nghèo, cải thiện
đời sốn cho người dân 3 tỉnh Sơn La, Điện Biên và Lai Châu.
-
Ngoài ra, khi dự án Thủy điện Sơn La
hoàn thành sẽ tạo thành một hệ thống giao thông dọc các tỉnh Tây Bắc thông qua
hồ chứa Hòa Bình và hồ chứa Thủy điện Sơn La, tạo điều kiện phát triển nuôi trồng
thủy sản, cải tạo khí hậu tiểu vùng dọc hồ chứa và phát triển du lịch sinh
thái. Đây là một trong các dự án trọng điểm của quốc gia được Quốc hội giám sát
kỹ và đánh giá đã triển khai thực hiện đúng tiến độ.
II.Chu
trình dự án
Theo Nghị quyết của Quốc
hội, tổ máy 1 phát điện vào năm 2012, hoàn thành toàn bộ nhà máy vào năm 2015;
được hiệu chỉnh phát điện tổ máy 1 vào cuối năm 2010, hoàn thành công trình vào
2012. Theo đó tiến độ của dự án cụ thể như sau:
·
Giai đoạn 1: chuẩn bị dự án
- Năm 1975: Các chuyên gia
Thủy điện và công nghiệp Moscow, công ty Electricity and Power Distribution của
Nhật Bản, Cty Designing Research and Production Shareholding của Nga và SWECO
của Thụy Điển đã thực hiện những chuyến khảo sát đầu tiên.
- Năm 2001: dự án Thủy điện Sơn
La được đưa ra Quốc hội khóa X thảo luận, gây ra nhiều tranh cãi về tính an
toàn do mực nước thiết kế cao lại nằm trong khu vực có thể có động đất, lo ngại
các tác động về môi trường sinh thái, an ninh quốc phòng. Do đó ngày 29/6/2001, dự án Thủy điện Sơn La được
Quốc hội thông qua chủ trương đầu tư, nhưng chưa quyết phương án xây dựng
- Tháng 12/2002: Báo cáo nghiên
cứu khả thi đã được Nghị quyết tại kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa XI (tháng
12/2002) thông qua với mục tiêu phát điện tổ máy số 1 vào năm 2012 và hoàn
thành toàn bộ công trình vào năm 2015. Quốc hội yêu cầu Chính phủ chỉ đạo tiếp
tục hoàn chỉnh quy hoạch bậc thang thủy điện sông Đà.
- Năm 2003: EVN đã hoàn chỉnh Báo cáo nghiên
cứu khả thi thực hiện phương án Sơn La thấp. Công tác tái định cư cũng được bắt
đầu triển khai thực hiện
·
Giai đoạn 2: Khởi công,
xây dựng công trình
- Tháng 12/2003: Những người thợ đầu tiên thuộc Tổng
công ty Xây dựng Sông Đà có mặt tại công trường. để triển khai xây dựng mặt
bằng công trường và đồng thời tận dụng thời gian chuẩn bị công trường trong 2
năm (2004-2005) để thi công các công trình dẫn dòng.
- Ngày 15/1/2004: Thủ tướng Chính phủ đã ra quyết
định số 09/QĐ-TTg phê duyệt đầu tư Dự án Thủy điện Sơn La và thành lập Ban chỉ
đạo Nhà nước về công trình TĐSL. Phó Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng trực
tiếp làm Trưởng ban Chỉ đạo.
- Ngày 15/3/2004: Kênh dẫn dòng, hạng mục quan trọng
có tính chất quyết định đến tiến độ công trình, được thi công.
- Ngày 13/11/2005: Tổng công ty Sông Đà đã nổ mìn, phá
đê quai để đưa nước sông Đà vào kênh dẫn dòng.
- Ngày 2/12/2005: Khởi công xây dựng đồng thời ngăn
sông đợt 1 Nhà máy Thủy điện Sơn La – công trình thủy điện lớn nhất Đông Nam Á
. Trong quá trình thiết kế, thi công dự án đã được thay đổi nhiều so với phương
án ban đầu như cao trình được hạ xuống từ khoảng 295 xuống còn 215-230, thay
biện pháp đổ bê tông đập dâng bằng công nghệ dầm lăn với phụ gia khoáng là tro
bay của Nhiệt điện Phả Lại, thay phương án từ nhà máy 8 tổ máy (8 x 300 MW)
sang phương án nhà máy 6 tổ máy (6x400 MW); thay phương án máy biến áp 1 pha
bằng máy biến áp 3 pha… Để tăng
tính an toàn của đập các chuyên gia nước ngoài từ Nga, Châu âu, Trung Quốc đã
được mời giám sát, đóng góp bổ sung thêm những tiêu chuẩn rất chặt chẽ…..
- Ngày 11/1/2008: Những khối bê tông đầm lăn đầu tiên
đã chính thức được sản xuất.
- Ngày 23/12/2008: Ngăn sông Đà đợt 2. Theo kế hoạch,
đến 3/1/2009 mới tiến hành ngăn sông Đà đợt 2, nhưng trên cơ sở hội đủ các yếu
tố về điều kiện thuỷ văn; đồng thời, công tác chuẩn bị của Chủ đầu tư và các
nhà thầu cho việc ngăn sông đã hoàn tất, nên việc ngăn sông Đà đợt 2 đã được
thực hiện sớm hơn 7 ngày so với kế hoạch.
- Ngày 15/5/2010: Đóng kênh dẫn dòng. Đến ngày
05/11/2010, hồ chứa đã tích nước đến cao trình 189,3m và đang điều tiết giữ mực
nước không vượt cao trình thiết kế năm 2010 là 190m. Công tác xây lắp các hạng
mục công trình đáp ứng yêu cầu phát điện tổ máy số 1 vào tháng 12/2010 và đảm
bảo chống lũ năm 2011.
- Ngày 20/8/2010: Lắp đặt thành công rotor tổ máy số
1. Đây là mốc quan trọng để tiến tới chạy thử các hệ thống thiết bị phụ, đáp
ứng phát điện tổ máy số 1 đúng tiến độ, vào cuối tháng 12/2010. Rotor tổ máy số
1 có trọng lượng nặng 1.000 tấn, đường kính 15,589m, chiều cao 2,816m - là kết
cấu nặng nhất trong các thiết bị lắp đặt tại công trường và là rotor nặng nhất
trong các nhà máy thủy điện của Việt Nam.
- Ngày 25/8/2010: Kết thúc quá trình đổ bê tông đầm
lăn, đạt 2,7 triệu m3
·
Giai đoạn 3: vận hành
tổ máy, đưa vào sử dụng
- Ngày 18/11/2010: Khởi động không tải tổ máy số 1
- Ngày 17/12/2010: Phát điện tổ máy số 1 lên lưới điện
quốc gia
- Ngày 21/4/2011: Phát điện tổ máy số 2 lên lưới điện
quốc gia
- Ngày 25/8/2011: Phát điện tổ máy số 3 lên lưới điện
quốc gia
- Ngày 19/12/2011: Phát điện tổ máy số 4 lên lưới điện
quốc gia
- Ngày 28/4/2012: Phát điện tổ máy số 5 lên lưới điện
quốc gia
- Ngày 26/9/2012: Tổ máy 6 (tổ máy cuối cùng) của Nhà
máy Thủy điện Sơn La đã hòa thành công vào điện lưới Quốc gia, sớm hơn 3 tháng
so với dự kiến
- Ngày 23/12/2012,
công trình Thủy điện Sơn La chính thức khánh thành trở thành đập thủy điện lớn
nhất Đông Nam Á với cao độ đỉnh đập 228,1 m; dài 961,6 m; chiều rộng đáy đập
105 m; chiều rộng đỉnh đập 10 m. Dung tích hồ chứa thủy điện 9,26 tỷ m3, với
tổng công suất lắp máy 2.400 MW, sản lượng điện bình quân hàng năm trên 10 tỷ
kW, bằng gần 1/10 sản lượng điện của Việt Nam năm 2012
III.
Những thuận lợi và khó khăn khi thực hiện dự án
1. Thuận lợi
1.1
Có sự kết nối chặt chẽ từ Ban chỉ đạo
Nhà nước, đặc biệt là sự chỉ đạo của các Phó Thủ tướng. Bên cạnh đó, ông Thái Phụng Nê,
Phó Ban chỉ đạo Nhà nước về công trình Thuỷ điện Sơn La, là người có kinh
nghiệm nhiều năm và rất tâm huyết với công trình, là cầu nối giữa các nguyên
thủ Nhà nước với công trình. Mặt khác, Dự án Thuỷ điện Sơn La phải thực hiện di
dân trên 20 ngàn hộ trải rộng trên 3 tỉnh (diện tích lòng hồ 220km2). Phần việc
này do bên Di dân tái định cư của 3 tỉnh thực hiện. Các bên thi đua để hoàn
thành các phần việc của mình đúng với tiến độ được bên thi công công trình báo
trước và thậm chí còn xong trước thời gian đã định. Như vậy, thông tin của Dự
án, Chủ đầu tư và Ban Di dân tái định cư của ba tỉnh Sơn La, Điện Biên, Lai
Châu được kết nối với nhau một cách khít khao. Kể cả giao thông tránh ngập (cầu
Pá Uôn) cũng khớp được vào nhau, không để tình trạng làm hồ nước lên mà dân
không có đường đi hoặc cầu chưa xong…Tất nhiên, khó có thể hoàn hảo, trọn vẹn
theo ý tất cả. Nhưng nói chung, sự kết nối trong nội bộ Dự án cũng như sự kết
nối với dự án giao thông, di dân - tái định cư ăn khớp với nhau nên không bị
làm lãng phí thời gian phải chờ đợi nhau. Ban Quản lý Dự án Thuỷ điện Sơn La
cũng đã được kinh qua quản lý nhiều công trình lớn và được EVN đầu tư nhiều về
nhân sự và điều kiện vật chất. Về phía tổ hợp các nhà thầu thi công Thuỷ điện
Sơn La (Tổng công ty Sông Đà, Lilama, Trường Sơn, Licogi), hiện nay, để thi
công thuỷ điện thì có thể nói đó là những đơn vị tốt nhất, đã kinh qua nhiều
công trình lớn như: Hòa Bình, Ialy, Sê San, Tuyên Quang… Họ có năng lực thực sự
và đầu tư thực sự cho dự án này, đồng thời cũng rất có trách nhiệm với dự án
này. Việc thu xếp vốn cho dự án cũng được chủ đầu tư thu xếp đầy đủ và là một
trong những dự án có công tác giải ngân rất tốt.
1.2
Công tác ký hợp đồng mua thiết bị từ các nhà thầu nước ngoài (5 nhà thầu) được
phối hợp tốt nên thiết bị được giao đúng ngày, đúng tháng, thậm chí khi yêu cầu giao sớm 6
tháng, họ cũng đáp ứng (như đáy của nhà máy). Với các thiết bị cơ khí thuỷ công
khác, ta cũng chủ động được nhiều, như đường ống áp lực, cửa nhận nước, cần
trục… Bên cạnh đó, việc vận chuyển các thiết bị siêu trường siêu trọng cũng
chọn được nhà vận chuyển có khả năng thực sự (Công ty vận tải Đa phương thức).
1.3 Đội ngũ xây dựng công trình thủy điện Sơn
La đã có nhiều kinh nghiệm với các công
trình thủy điện.
Tổng công ty xây dựng sông Đà là đơn vị đảm
nhiệm trách nhiệm thi công chính. Trong lĩnh vực xây dựng thủy điện công ty đã
ghi dấu bởi nhiều công trình lớn nhỏ như công trình thủy điện Thác Bà rồi thủy
điện Hòa Bình một trong những công trình lớn đánh và vẫn còn giá trị rất lớn
cho tới hiện nay. Ngoài ra đội ngũ cán bộ xây dựng cũng không ngừng nỗ lực học
hỏi để tiếp nhận các kĩ thuậ xây dựng mới và các công nghệ mới để công trình có
thể tiến hành thi công nhanh, hiệu quả và tiết kiệm nhất. Cụ thể:
-
Tổng công ty Sông Đà đã
nỗ lực huy động lực lượng thi công đủ để đáp ứng tốt nhất yêu cầu của Chủ đầu
tư, chỉ huy công trường, cùng các nhà thầu khác làm tốt công tác chuẩn bị thi
công công trình; đồng thời tận dụng thời gian chuẩn bị công trường 2 năm (2004-2005)
thi công Cống dẫn dòng. Điều này đã làm nên một sự kiện chưa từng có, đó là thực
hiện ngăn sông sớm hơn một năm so với yêu cầu của Quyết định đầu tư và Lễ khởi
công công trình đồng thời cũng là Lễ ngăn sông (vào ngày 02/12/2005).
-
Trong qua trình thi
công các kỹ sư đã mạnh dạn thực hiện công nghệ thi công RCC. Về công nghệ RCC: bê tông đầm lăn (RCC) đang là những công nghệ tiên tiến được
áp dụng phổ biến trên thế giới. Tại nước ta, mới chỉ có rất ít các công trình
áp dụng được công nghệ này tại các dự án thủy điện . Đập RCC là công nghệ đập
bê tông nhưng được thi công như đập đất, sử dụng thiết bị vận chuyển, rải, san
và đầm chặt bê tông có công suất lớn. Hỗn hợp bê tông có hàm lượng chất kết
dính thấp và độ ẩm nhỏ được lèn chặt bằng máy đầm lu rung. Theo các chuyên gia
xây dựng, công nghệ RCC đặc biệt hiệu quả khi áp dụng cho xây dựng đập bê tông
trọng lực. Khối lượng bê tông được thi công càng lớn thì hiệu quả áp dụng công
nghệ RCC càng cao. Việc lựa chọn phương án xây dựng đập bằng công nghệ RCC đem lại
hiệu quả kinh tế cao hơn so với công nghệ CVC và đạt được tiến độ nhanh hơn nhiều
do tăng được tốc độ đổ bê tông, giảm lượng tiêu thụ xi măng (chỉ từ 60-100
kg/m3 bê tông RCC), tận dụng được tro bay thải của các nhà máy nhiệt điện hoặc
nguồn puzzolan sẵn có trong nước. Có thể nói đập
Sơn La là một trong những đập lớn thế giới được thi công theo công nghệ bê tông
RCC. Điều này đã chứng tỏ khả năng của những người thợ xây dựng công trình.
Ngoài ra, việc áp dụng công nghệ mới cũng được các chuyên gia tư vấn đánh giá
cao. Bởi những khó khăn do thời tiết tại
đây cực kỳ khắc nghiệt, địa hình đập thủy điện Sơn La rất phức tạp, phải bố trí
lắp đặt tuyến băng tải uốn lượn dài hơn hai cây số. Chỉ có sự nỗ lực, cố gắng, sáng tạo vượt lên trên tất
cả những khó khăn đó những người thợ Sông Đà 5 mới có thể hoàn thành thi công
công trình một cách suất sắc, đúng hẹn, đảm bảo mỹ thuật và chất lượng công
trình. Đặc biệt hơn nữa, đây chính là thủy điện được đắp đập theo công nghệ bê
tông RCC với cường độ rất cao.
2. Khó khăn
2.1 Khó khăn trong
việc xác định vị trí xây dựng
Vị trí
công trình thủy điện Sơn La nằm trên một đoạn sông khoảng 40 km từ tuyến Bản Tả
(phía hạ lưu) đến tuyến Pa Vinh (thuộc xã Ít Ong, huyện Mường La). Công trình
thủy điện Sơn La đã được dự định từ những năm 1980. Tuy nhiên công việc khảo
sát lên kế hoạch phải kéo dài đến vài chục năm. Trong suốt 20 năm tìm kiếm địa
điểm thích hợp để xây dựng đã có nhiều địa điểm được tìm ra nhưng lại không thể
đáp ứng đủ các điều kiện về an toàn, chi phí. Đã có các nhà khoa học của Pháp,
Trung Quốc cũng tiến hành vào công cuộc tìm kiếm địa điểm để xây dựng thụy điện
Sơn La nhưng đều thất bại vì đây là khu vực có bề dày phong hóa quá lớn, tức là
lớp đá dưới lòng sông đang chịu ảnh hưởng của thời gian, điều kiện thời
tiết... Hơn nữa, lớp sỏi cuội ở tầng phủ và lớp cuội tảng lại quá dày, nếu
đắp đập trên đó phải xử lý nhiều vấn đề sẽ rất tốn kém, lại không an toàn. Khó
khăn như vậy, nên để xác định được địa điểm đặt nhà máy thủy điện Sơn La, riêng
đoạn sông 30km ở Mường La đã phải xác định cả chục tuyến.
Địa điểm đầu tiên được tìm ra là ở bản Bậu, xã Tạ Bú vào năm 1982. Tại khu vực bản Bậu, phải khảo sát 4 điểm có thể đắp đập. Tuy nhiên, tầng phong hóa ở khu vực này quá dày và rộng. Sau 4 năm trời khảo sát, tìm ra biện pháp khắc phục để xây đập ở đây vẫn không thể thành công vì khu vực bản Bậu lòng sông quá rộng, nếu đắp đập phải dài hơn 600 mét, như vậy việc xây đập và xử lý đập sẽ rất tốn kém.
Địa điểm thứ hai được tìm ra là bản Tạ Bú, cách bản Bậu 10km. Riêng khu vực Tạ Bú phải khảo sát 3 tuyến, mất tổng cộng 5 năm trời. Khu vực Tạ Bú, nền đập có địa tầng khá tốt, phù hợp cho việc xây đập. Tuy nhiên, vai phải đập có tầng phong hóa sâu, gồm những lớp phủ sỏi cuội và lớp bazan rất dày và cyó một vết đứt gãy sâu chạy qua tuyến đập. Còn một nguyên nhân quan trọng nữa mà các kỹ sư địa chất phát hiện ra, đó là dãy núi đá vôi Pi Toong chạy dọc huyện Mường La có tầng địa chất rỗng, nhiều vết đứt gãy, tức là hiện tượng karts rất sâu. Ngoài ra ở khu vực này thực dân Pháp đã đào những đường hầm lớn, chạy dọc dãy núi để tìm vàng. Nếu đắp đập ở khu vực Tạ Bú, nước sẽ dâng cao và thấm vào lòng núi, hình thành những dòng sông ngầm tống nước về hạ lưu, như vậy, không những hồ sẽ mất một lượng lớn nước mà có thể tạo ra thiên tai cho vùng hạ lưu. Để chống thấm cho cả dãy núi đá vôi Pi Toong thì phải đào sâu vào lòng núi vài ngàn mét rồi xây tường bê tông như tường thành. Như vậy, số tiền bỏ ra sẽ vô cùng lớn mà hiệu quả lại không cao. Ngoài ra, nếu đắp đập ở Tạ Bú, cả thị trấn Mường La sẽ phải di chuyển, tạo ra một sự tốn kém không cần thiết.
Cuối cùng thì khu vực Pá Vinh II được tìm ra. Địa điểm này hội tụ tương đối đầy đủ điều kiện để xây dựng công trình thủy điện lớn như thủy điện Sơn La. Đây là khu vực tương đối thấp nên chi phí xây dựng vận chuyển nguyên vật liêu sẽ tiết kiệm được rất nhiều. Ngoài ra công trình thủy điện thấp ít phải di dân tái định cư, lại có thể tiết kiệm dòng sông làm thêm một số thủy điện trên thượng nguồn khác.
Địa điểm đầu tiên được tìm ra là ở bản Bậu, xã Tạ Bú vào năm 1982. Tại khu vực bản Bậu, phải khảo sát 4 điểm có thể đắp đập. Tuy nhiên, tầng phong hóa ở khu vực này quá dày và rộng. Sau 4 năm trời khảo sát, tìm ra biện pháp khắc phục để xây đập ở đây vẫn không thể thành công vì khu vực bản Bậu lòng sông quá rộng, nếu đắp đập phải dài hơn 600 mét, như vậy việc xây đập và xử lý đập sẽ rất tốn kém.
Địa điểm thứ hai được tìm ra là bản Tạ Bú, cách bản Bậu 10km. Riêng khu vực Tạ Bú phải khảo sát 3 tuyến, mất tổng cộng 5 năm trời. Khu vực Tạ Bú, nền đập có địa tầng khá tốt, phù hợp cho việc xây đập. Tuy nhiên, vai phải đập có tầng phong hóa sâu, gồm những lớp phủ sỏi cuội và lớp bazan rất dày và cyó một vết đứt gãy sâu chạy qua tuyến đập. Còn một nguyên nhân quan trọng nữa mà các kỹ sư địa chất phát hiện ra, đó là dãy núi đá vôi Pi Toong chạy dọc huyện Mường La có tầng địa chất rỗng, nhiều vết đứt gãy, tức là hiện tượng karts rất sâu. Ngoài ra ở khu vực này thực dân Pháp đã đào những đường hầm lớn, chạy dọc dãy núi để tìm vàng. Nếu đắp đập ở khu vực Tạ Bú, nước sẽ dâng cao và thấm vào lòng núi, hình thành những dòng sông ngầm tống nước về hạ lưu, như vậy, không những hồ sẽ mất một lượng lớn nước mà có thể tạo ra thiên tai cho vùng hạ lưu. Để chống thấm cho cả dãy núi đá vôi Pi Toong thì phải đào sâu vào lòng núi vài ngàn mét rồi xây tường bê tông như tường thành. Như vậy, số tiền bỏ ra sẽ vô cùng lớn mà hiệu quả lại không cao. Ngoài ra, nếu đắp đập ở Tạ Bú, cả thị trấn Mường La sẽ phải di chuyển, tạo ra một sự tốn kém không cần thiết.
Cuối cùng thì khu vực Pá Vinh II được tìm ra. Địa điểm này hội tụ tương đối đầy đủ điều kiện để xây dựng công trình thủy điện lớn như thủy điện Sơn La. Đây là khu vực tương đối thấp nên chi phí xây dựng vận chuyển nguyên vật liêu sẽ tiết kiệm được rất nhiều. Ngoài ra công trình thủy điện thấp ít phải di dân tái định cư, lại có thể tiết kiệm dòng sông làm thêm một số thủy điện trên thượng nguồn khác.
2.2 Khó khăn trong công tác tái định cư
2.2.1. Khối
lượng dân di cư lớn, ban đầu người dân chưa thực sự ủng hộ việc tái định cư của
dự án
Theo Quy hoạch tổng
thể di dân, tái định cư Dự án thủy điện Sơn La đã được Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt, tổng số dân di chuyển thuộc Dự án di dân, tái định cư thủy điện Sơn La là
20.340 hộ, 92.301 nhân khẩu. 17.996 hộ tại 3 tỉnh
Sơn La, Lai
Châu, Điện Biên. Trong đó, tỉnh Sơn La 12.584 hộ, 58.337 khẩu; tỉnh Điện Biên 4.459 hộ,
17.010 khẩu; tỉnh Lai Châu 3.297 hộ, 16.954 khẩu. Tổng số khu,
điểm tái định cư tập trung của Dự án di dân, tái định cư thủy điện Sơn La 78
khu, 285 điểm, tái định cư xen ghép vào 38 bản thuộc 17 xã và tái định cư tự
nguyện; bố trí tái định cư cho 20.477 hộ (gồm số dân di chuyển thuộc Dự án di
dân, tái định cư thủy điện Sơn La và Dự án đường tránh ngập đường Mường Lay-Nậm
Nhùn, giai đoạn 1). Đối với tỉnh Sơn La, tái định cư tập trung tại 54 khu, 237
điểm có tổng diện tích đất ở và đất sản xuất là 37.207 ha. Với tỉnh Điện Biên,
tái định cư tập trung 11 khu, 11 điểm có tổng diện tích đất ở và đất sản xuất
là 12.004 ha. Còn với tỉnh Lai Châu, tái định cư tập trung 13 khu, 37 điểm có
tổng diện tích đất ở và đất sản xuất là 9.278,3 ha.
2.2.2 Nhu
cầu vốn cho công tác tái định cư lớn
Tổng mức đầu tư Dự án di dân, tái định
cư thủy điện Sơn La hơn 26.457 tỷ đồng, trong đó, nguồn vốn ngân sách Nhà nước
đầu tư hơn 17.417 tỷ đồng, còn lại là nguồn vốn của Tập đoàn Điện lực Việt Nam
gần 9.040 tỷ đồng. Quy hoạch tổng
thể di dân, tái định cư Dự án thủy điện Lai Châu nhằm tạo điều kiện để đồng bào
tái định cư sớm ổn định chỗ ở và đời sống, phát triển sản xuất, cuộc sống vật
chất, tinh thần ngày càng tốt hơn nơi ở cũ.
2.3 Nguồn
nhân lực
2.3.1 Khó khăn về vấn đề an toàn cho người
lao động:
Thủy
điện Sơn La một công trình thủy điện lớn bên cạnh đó qúa trình xây dựng bao gồm
nhiều công đoạn phức tạp và được xây dựng ở nơi có địa thế không thuận lợi. Địa
điểm xây dựng công trình thủy điện cao, ở nơi rừng núi và khó di chuyển. Đồng
thời quá trình xây dựng luôn tiềm ẩn nhiều rủi ro vì khu vực xây dựng có thời
tiết khắc nghiệt, địa hình lại hiểm trở. Chính vì vậy mà công việc chứa đựng nhiều luôn
gặp nhiều nguy hiểm, công tác đảm bảo an toàn lao động cũng gặp nhiều khó khăn.
2.3.2. Khó
khăn về quy mô xây dựng.
Mặc dù đơn vị thi công chính là Tổng công ty
xây dựng sông Đà đã có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực này song thủy điện Sơn
La là một công trình xây dựng rất lớn và chúng ta chưa có nhiều kinh nghiệm
thực tiễn với những công trình lớn như vậy từ trước đến này. Do đó quá trình
xây dựng chắc chắn sẽ gặp nhiều khó khăn.
2.4 .Nguồn vốn
2.4.1.Đòi hỏi nguồn
vốn lớn:
Tổng mức đầu tư và nguồn vốn của dự án thủy điện Sơn là 60.195,928 tỷ đồng. Trong đó: Dự án xây
dựng công trình thủy điện Sơn La: 34.867,052 tỷ đồng( Chi phí xây dựng:
13.246,214 tỷ đồng; Chi phí thiết bị: 10.177,781 tỷ đồng; Chi phí quản lý và
các chi phí khác: 10.337,050 tỷ đồng; Dự phòng: 1.106,007 tỷ đồng; Dự án di
dân, tái định cư: 20.293,821 tỷ đồng. Dự án giao thông tránh ngập: 5.035,055 tỷ
đồng, trong đó: Cầu Pá Uôn
trên Quốc lộ 279: 677,772 tỷ đồng; Quốc lộ 12 và cầu Hang Tôm: 1.900,000 tỷ
đồng; Đường tỉnh 107 tránh ngập thủy điện Sơn La: 1.635,793 tỷ đồng; Đường tỉnh
127 và cầu Lai Hà: 821,490 tỷ đồng. Với tổng số vốn lớn và bao gồm nhiều công
trình hạng mục như vậy việc huy động được đủ nguồn vốn xây dựng là một khó khăn
không hề nhỏ.
2.4.2.
Chi phí vốn cao
Các dự án thủy điện lại
không được vay ưu đãi nên chi phí vốn vay nước ngoài cũng cao. Vì vậy, khi xây
dựng Dự án thủy điện Sơn La, theo phương án ban đầu, kinh phí sẽ được
huy động từ 3 nguồn: vốn ngân sách, vốn ngành điện tự đầu tư, còn lại là vốn
vay trong và ngoài nước.
§ Với vốn ngân
sách, đây là khoản đầu tư nằm trong phạm vi chương trình di dân tái định cư.
Tổng mức hỗ trợ ngân sách cỡ 5.000 tỷ đồng. Về vốn tự tích lũy của Tổng công ty
Điện lực Việt Nam (EVN), phần này được dự tính tương đương tới 30% tổng vốn đầu
tư thuần, bao gồm một loạt các khoản như chênh lệch tăng giá điện, lợi nhuận
chuyển sang đầu tư, vốn khấu hao... Theo tính toán của EVN, phần vốn này ước
khoảng 9.000-12.000 tỷ đồng.
§ Với phần vốn
vay, dự tính riêng cho xây dựng sẽ vay trong nước khoảng 4.000-6.500 tỷ đồng.
Thời gian vay giới hạn từ năm 2006 đến 2012 và thời gian trả nợ từ năm 2007 đến
năm 2018. Còn lại là vay nước ngoài, số này chiếm hơn 30% tổng mức đầu tư và sẽ
được sử dụng để nhập thiết bị, chi phí cho tư vấn cũng như các khoản chi khác.
Thời gian vay từ năm 2006 đến năm 2015 và sẽ trả nợ trong hơn 10 năm.
§ Bên cạnh
những nguồn vốn trên, chủ đầu tư dự kiến vào những năm cao điểm (2006-2007) sẽ
phát hành trái phiếu công trình trong thời hạn 5 năm, với tổng giá trị trái
phiếu phát hành dự kiến khoảng 1.200 tỷ đồng. Sau đó, đến khi vận hành từng tổ
máy, toàn bộ nguồn thu từ bán điện sẽ được chuyển sang tái đầu tư.
Do
đây là công trình thủy điện không chỉ có công suất lớn nhất Việt Nam mà còn lớn
nhất cả khu vực Đông Nam Á, công nghệ lại hiện đại đáp ứng đủ tiêu chuẩn kỹ thuật
nên nguồn vốn rót vào nó là con số không hề nhỏ. Với nền kinh tế của chúng ta
chưa thật sự mạnh , nhất là cả một giai đoạn xây dựng trong vòng 8 năm, áp lực
của lạm phát suy thoái kinh tế làm cho dự án gặp rất nhiều khó khăn trong việc
tiếp cận nguồn vốn. theo Tổng Giám đốc EVN , trong
những thời điểm khó khăn về thu xếp vốn, EVN đã phải chấp nhận “vay nóng” của
Ngân hàng Phát triển Việt Nam với lãi suất cao; đồng thời tích cực làm việc với
các ngân hàng thương mại để đảm bảo dự án không ngừng trệ vì thiếu vốn.
2.4.3 Áp lực giá cả tăng cao đẩy chi phí lên so với dự tính
Ban đầu mức đầu tư cho công trình
khoảng 39 ngàn tỷ đồng, nay được điều chỉnh lên hơn 60 ngàn tỷ đồng. Nguyên
nhân, 39 ngàn tỷ đồng là giá
khi đưa vào tổng mức đầu tư từ năm 2002 và đây cũng là mức đầu chưa tính lãi
vay (giá USD năm 2002 quy đổi tiền Việt chỉ bằng gần ½ thời điểm hiện tại). Còn
khi nhập thiết bị về lúc nào thì trả lúc đó và cho đến bây giờ vẫn phải trả với
giá USD là 20.800 VND (trượt giá USD). Mức điều chỉnh nữa là tiền lương. Vừa
rồi, tổng mức đầu tư được điều chỉnh nhưng chủ yếu điều chỉnh về tái định cư và
di dân. Với việc về đích trước thời hạn đã tiết kiệm được rất nhiều thứ, trong
đó, theo tính toán sẽ làm lợi cho Nhà nước khoảng 1 tỷ USD. Điều này có thể
thấy, chạy được sớm từ cuối năm 2012 thì bắt đầu từ năm 2013 trở đi sẽ có được
sản lượng của cả 6 tổ máy và hàng năm có được 9-10 tỷ kWh (mức giá 5 cen-USD/1
kWh) tương đương 500 triệu USD/năm
2.5 Về công nghệ
Điểm đặc sắc của công trình Thủy điện
Sơn La là nhà máy được lắp đặt toàn bộ máy móc, thiết bị kỹ thuật thuộc thế hệ
mới, tiến bộ nhất và ứng dụng các giải pháp kỹ thuật mới của thế giới để thi
công, xây lắp nhằm đảm bảo chất lượng công trình thế kỷ, nâng cao năng suất lao
động, rút ngắn thời gian, tiết kiệm chi phí hàng trăm tỷ đồng và giảm bớt hàng
vạn ngày công lao động. Tiêu biểu là công nghệ bê tông đầm lăn (RRC) cho xây
dựng đập bê tông trọng lực Thủy điện Sơn La có cường độ thi công trung bình
86.000m3/tháng, không những cho phép đổ bê tông nhanh hơn nhiều so với phương
pháp đổ bê tông thông thường mà còn đảm bảo độ tin cậy, an toàn cao nhất trong
công trình vĩnh cửu này. Đập thủy điện Sơn La dài gần một km từ bờ trái vắt
ngang qua bờ phải nhằm chặn đứng dòng chảy của sông Đà, có bề rộng từ đáy đập
120 mét và phải đắp lên cao 138 mét. Công nghệ RRC theo trường phái "giàu
chất kết dính" được áp dụng vì đập có khối lượng bê tông rất lớn (3 triệu
m3 / 5,1 triệu m3 bê tông) của toàn bộ công trình. Do những ưu điểm như tỏa
nhiệt nhanh, yêu cầu thi công liên tục, nên công nghệ RRC đã tạo điều kiện cho
phép đưa tổ máy đầu tiên công suất 400 MW hòa lưới thành công năm 2010, tiết
kiệm chi phí đầu tư khoảng 1.200 tỷ đồng. Tiếp đó, các tổ máy 2, 3, 4 có công
suất 400 MW vào vận hành an toàn trong năm 2011. Tổ máy số 6 công suất 400 MW
là tổ máy cuối cùng của dự án đã hòa lưới điện ngày 02/9/2012, trước thời hạn 3
tháng.
Tổng công ty Lắp máy Việt Nam
(Lilama) được Chính phủ giao làm nhà thầu lắp thiết bị toàn bộ cho công trình
Thủy điện Sơn La. Với tinh thần trách nhiệm cao, kỹ sư và công nhân kỹ thuật
Lilama có trình độ tay nghề cao và giàu kinh nghiệm tổ chức làm việc mỗi ngày 3
ca, trong 24 tháng đa lắp đặt chính xác, an toàn 115.000 tấn máy, thiết bị kỹ
thuật đồng bộ, đạt kỷ lục chưa từng có từ trước đến nay. Nhờ đó, cả 6 tổ máy
Thủy điện Sơn La có công suất 400MW / tổ đều đi vào vận hành trước thời hạn.
Do công nghệ này còn chưa thực sự phổ
biến rộng khắp tại Việt Nam, trình độ kỹ sư công nhân kỹ thuật đáp ứng đủ yêu
cầu là không cao nên tạo ra trở ngại trong việc mất nhiều thời gian và chi phí
để đào tạo lại cộng thêm việc phải thuê nhiều chuyên gia nước ngoài về hướng
dẫn. Do đó chi phí để đầu tư cho công nghệ là một khoản tiền không hề nhỏ. Hơn
nữa do công trình này được đánh giá là tầm quan trọng chiến lược của Việt Nam
cả về kinh tế- chính trị nên để có sự gia nhập của các yếu tố nước ngoài cần
phải hạn chế tối đa.
Việc áp dụng công nghệ cũng phải mất nhiều thời gian nghiên cứu kỹ lưỡng
để đảm bảo phù hợp với điều kiện địa lý, tự nhiên của Việt Nam.
2.6
Về thị trường tiêu thụ
Cùng với tốc độ gia tăng dân số ngày càng
cao, kinh tế xã hội của đất nước ngày càng phát triển , nhu cầu tiêu thụ điện của
Việt Nam cũng tiếp tục gia tăng. Hiện nay nguồn cung ứng điện trong nước của
chúng ta vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu điện năng vô cùng lớn, do đó để hạn chế
việc nhập khẩu điện, Chính phủ Việt Nam không ngừng nỗ lực đề ra các giải pháp
mục tiêu như đa dạng hóa các nguồn sản xuất điện nội địa, giảm dần sự phụ thuộc
vào năng lượng hóa thạch bằng cách đa dạng hóa việc khai thác sử dụng các nguồn
năng lượng có hiệu quả hơn, trong đó có thủy điện. Dự án thủy điện Sơn La là
công trình trọng điểm quốc gia với công suất lắp đặt 2400 MW ra đời nhằm đáp ứng
nhu cầu điện năng đang thiếu hụt trầm trọng của nước ta. Dự án chính thức đi
vào hoạt động từ 2010 và khánh thành vào 12/2012, cung cấp điện lên hệ thống điện
quốc gia với sản lương trung bình hàng năm là 10,246 tỷ kWh, phần nào làm giảm
đi việc thiếu điện vào những tháng cao điểm của mùa hè, góp phần phát triển
kinh tế xã hội không chỉ cho Sơn La, vùng Tây Bắc nói riêng mà còn cho cả nước nói chung. Tuy nhiên do chỉ
nhằm mục đích đáp ứng nhu cầu điện trong nước nên tính cạnh tranh của nó không
cao. Bởi thị trường điện ở Việt Nam hiện nay mang tính chất độc quyền cao, sản
phẩm mà nhà máy sản xuất ra chỉ có thể bán lại cho EVN, điều này chưa thực sự tạo
ra thị trường điện tương xứng với tiềm năng , quy mô, vị trí lớn nhất Đông Nam
Á của thủy điện Sơn La. Bởi rõ ràng công suất điện năng của nó lớn nhất, là nguồn
cung cấp điện lớn nhất cả nước nhưng giá bán điện cũng như khả năng gia nhập thị
trường của các đơn vị sản xuất đều như nhau thì không thể tạo ra sự công bằng cạnh
tranh ở đây.
2.7
Những khó khăn khác
Để
dự án được thi công các nhà nghiên cứu, nhà khoa học đã phải mất 30 năm để
nghiên cứu vị trí địa lý, đánh giá các tác động đến môi trường, chính trị, địa
lý để tránh các tác động xấu có thể xảy ra như động đất,lũ lụt và phải đảm bảo
để sao cho an toàn tuyệt đối cho công trình, hạ du và thủ đô Hà Nội. Đã có
không biêt. bao nhiêu các phương án được đưa ra bàn bạc thảo luận trước quốc hội
để quy hoạch sao cho có hiệu quả và phải
đến tận năm 2005 dự án mới chính thức được triển khai.
IV.
Tác động của dự án
1.
Tác động tích cực
1.1 Góp phần giảm thiểu tình trạng thiếu
điện
Công trình Thủy điện Sơn La đi vào hoạt động trước thời hạn 3 năm, đến
thời điểm này đã cung ứng cho các ngành kinh tế, an ninh quốc phòng và nhu cầu
của nhân dân hơn 11,5 tỷ kWh điện, góp phần giảm thiểu tình trạng thiếu điện
gay gắt trong thời gian qua. Cả 6 tổ máy có tổng công suất 2400 MW chính thức
đi vào hoạt động với sản lượng mỗi năm hơn 10,2 tỷ kWh điện sẽ góp phần quan
trọng đảm bảo an toàn cung cấp điện cho hệ thống với giá thành thủy điện rẻ hơn
giá thành nhiệt điện khí và than. Thủy điện Sơn La có tính cơ động rất cao, có
thể đóng rất nhanh, giúp cho việc điều độ hệ thống điện của quốc gia tốt và an
toàn hơn.
1.2
Góp phần chống lũ, cung cấp nước cho
vùng hạ du
Hiện trên sông Đà có đến 5 nhà máy
thủy điện.
-Nhà máy thủy điện Hòa
Bình.:1920MW
-Nhà máy thủy điện Sơn
La:2400 MW
-Nhà máy thủy điện Lai
Châu :1200 MW
-Nhà máy thủy điện Huội
Quảng :520 MW
-Nhà máy thủy điện Bản
Chát :180 MW.
5 bậc thang thủy điện
này đã góp phần làm giảm bớt sự hung hãn của sông Đà mỗi khi mùa lũ về.Nhà máy
thủy điện Sơn La đã nâng tần suất chống lũ của dòng chính Sông Đà từ 125 năm
lên đến 500 năm.Ngoài ra,nhà máy thủy điện còn cung cấp nước cho hơn 20 triệu
người và hàng trăm nghìn Hecta lúa,cây trồng vùng đồng bằng Bắc Bộ
1.3
Nâng cao trình độ công nghệ, tay nghề
của ngành cơ khí Việt Nam
Việc xây dựng công trình Thủy điện Sơn La cũng đã góp phần nâng cao
trình độ công nghệ và tay nghề của ngành cơ khí Việt Nam, khi sử dụng hàng vạn
tấn thiết bị thủy công, cẩu trục lớn. Công trình Thủy điện Sơn La còn là nơi
đào tạo đội ngũ nhân lực cơ khí, lắp máy và vận hành các công trình điện. Nhiều
bài học quý giá từ xây dựng công trình Thủy điện Sơn La đã được đúc kết để áp
dụng vào việc xây dựng thủy điện Lai Châu, dự án thủy điện lớn nhất cuối cùng
của đất nước. Thủy điện Sơn La cũng đã xây dựng 125 km đường giao thông trên
địa bàn, 2 cầu dài 460 m bắc qua sông Đà và cầu vĩnh cửu Mường La dài 502 m
cùng với hệ thống điện, giao thông liên lạc cho địa phương, góp phần nâng cao
đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần cho đồng bào các dân tộc.
1.4
Góp phần rút ngắn khoảng cách giữa
vùng núi phía Bắc và đồng bằng
Nhờ có thủy điện Sơn La, Nhà nước đã đầu
tư nâng cấp các tuyến đường bộ như: quốc lộ 6 (Hà Nội - Hòa Bình - Sơn La -
Điện Biện); quốc lộ 43 (Hà Nội - Phú Thọ - Sơn La); quốc lộ 37 (Sơn La - Phù
Yên - Yên Bái); quốc lộ 4G (Sơn La - Sông Mã - Điện Biên); quốc lộ 106 (Sơn La
- thủy điện Sơn La - Yên Bái). Các tuyến tỉnh lộ, đường đến trung tâm các xã và
cụm xã được nâng cấp. Nhà nước sẽ đầu tư 2 cảng Tà Hộc (Mai Sơn), Tạ Bú (Mường La);
đồng thời, mở tuyến đường thủy để vận chuyển thiết bị từ Hòa Bình lên thủy điện
Sơn La. Đây là điều kiện để phát triển du lịch đường thủy, thăm phong cảnh hồ
Hòa Bình và các chợ phiên trên sông. Tổng Công ty Hàng không Việt Nam đang nâng
cấp cảng sân bay Nà Sản, chất lượng tuyến hàng không Hà Nội - Nà Sản - Hà Nội
sẽ được nâng lên
1.5
Tạo điều kiện cho Sơn La, Lai Châu,
Điện Biên bố trí lại dân cư, lao động, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tổ chức lại
cuộc sống, xây dựng nông thôn mới xã hội chủ nghĩa ở miền núi
Để đồng
bào các dân tộc có điều kiện cải thiện đời sống, từng bước tiếp cận với tiến bộ
khoa học kỹ thuật và ý nghĩa hơn cả là để người dân tái định cư Thủy điện Sơn
La đến nơi ở mới có cuộc sống ổn định, Chính phủ đã chính thức phê duyệt Dự án
cung cấp điện lưới quốc gia cho đồng bào các dân tộc tỉnh Sơn La. Được thực hiện
từ tháng 5/2012, dự án do Tổng công ty Điện lực Miền Bắc làm chủ đầu tư, Công
ty Điện lực Sơn La trực tiếp quản lý và thực hiện dự án. Đây là dự án điện nông
thôn lớn nhất từ trước đến nay được Thủ tướng Chính phủ cho phép áp dụng cơ chế
vốn: 85% nguồn ngân sách, 15% nguồn vốn từ Tập đoàn Điện lực Việt Nam. Tổng mức
đầu tư dự án khoảng 600 tỷ đồng, nhằm xây dựng 542 km đường dây 35 kV và 22 kV;
xây mới 218 trạm biến áp 3 pha, tổng công suất 11.295,5 kVA; xây dựng 875 km đường
dây 0,4 kV; lắp đặt 30.157 công-tơ 1 pha; đấu nối sau công-tơ cho mỗi hộ gia
đình một bảng điện, một bóng đèn và dây điện.
Tỉnh đã chỉ đạo Ban quản lý
dự án di dân của tỉnh và các huyện có dự án tiếp tục đẩy nhanh tiến độ thi công
hoàn thiện các hạng mục hạ tầng cơ sở như đường giao thông, điện, nước sinh hoạt.
Đặc biệt là công tác thu hồi và giao đất
sản xuất, chuyển giao khoa học kỹ thuật, công tác khuyến nông, khuyến lâm, chỉ
đạo triển khai các mô hình sản xuất canh tác trên đất dốc, mô hình trồng tre lấy
măng, trông cây ăn quả, chăn nuoi đại gia súc, trồng rau sạch, rau an toàn, dự
án nuôi trồng thủy sản trên lòng hồ.. đến nay toàn tỉnh đã hướng dẫn cho 5.484/9.853 hộ lập phương án
sản xuất, phê duyệt và giải ngân vốn hỗ trợ sản xuất kịp thời để các hộ dân tái
định cư sớm ổn định đời sống, sản xuất.
1.6
Tác động tích cực đến sự phát triển
du lịch.
Công trường thủy điện Sơn La là công trường
thủy điện lớn nhất Đông Nam Á, mặt bằng công trường rộng 2.070 ha có nhiều đồi
núi đan xen. Tính hấp dẫn do đặc điểm và quy mô công trường sẽ thu hút nhiều du
khách trong và ngoài nước đến tham quan.
Hồ thủy điện Sơn La được xây dựng là điều
kiện thuận lợi để phát triển du lịch đi thuyền trên mặt hồ, thăm những khu rừng
nguyên sinh với thảm động thực vật phong phú ở vùng lân cận.
Các
điểm tái định cư của người dân được xây dựng theo mô hình nông thôn mới nhưng
giữ nguyên bản sắc văn hóa của các dân tộc, sẽ tạo ra các điểm du lịch văn hóa,
làng nghề rất hấp dẫn.
Do tính hấp dẫn và ảnh hưởng của thủy điện
Sơn La, nhiều doanh nghiệp đầu tư tái tạo, khai thác các tiềm năng du lịch sẵn
có của tỉnh. Hiện đã có các dự án lớn như: đầu tư khu đô thị du lịch nghỉ dưỡng
Mộc Châu, khu du lịch hồ Tiền Phong (Mai Sơn), khu du lịch Chiềng Ngần (thị
xã), khu du lịch Ngọc Chiến (Mường La)…
2. Tác động tiêu cực
2.1
Vấn đề môi trường:
Nguy cơ gây thảm hoạ môi trường nếu có
rủi ro vỡ đập: Hồ chứa nước Thủy điện Sơn La sẽ làm ngập một diện tích đất lớn
(Sơn La cao khoảng 40.600 ha, Sơn La thấp khoảng 18.650 ha), kéo theo các tổn
thất về rừng, đa dạng sinh học, khoáng sản, di sản văn hoá, lịch sử và hạ tầng
cơ sở hiện có. Diện tích rừng bị ngập khoảng 2.500 - 3.100 ha, chiếm khoảng
7,02 - 11,2 % tổng diện tích đất ngập. Hệ thực vật ở vùng có mức đa dạng sinh
học trung bình (11 loài/50ha). Hệ động vật có 44 loài được liệt vào loại quý
hiếm, có giá trị kinh tế, nhưng số lượng cá thể còn rất ít. Do bị ngập, địa bàn
cư trú của một số động vật hoang dã sẽ bị thu hẹp hoặc mất hẳn, thành phần thuỷ
sinh có xu hướng giảm về số loài. Việc tái định cư có thể tạo điều kiện cho
phát triển lâm nghiệp vùng ven hồ và có thể thu hút các giống loài quay trở
lại, nhưng những tác động tiêu cực tới đa dạng sinh học là rất lớn.
Sự hình thành hồ chứa sẽ ảnh hưởng đến số
lượng lớn dân cư, tác động tới quy hoạch lãnh thổ, làm nảy sinh những vấn đề
môi trường đô thị như: cấp nước, vệ sinh, ô nhiễm không khí, đất nước, rác
thải, nhà ở và các dịch vụ khác...
Hàng loạt vấn đề môi trường nghiêm trọng
nảy sinh trong quá trình chuẩn bị và xây dựng công trình như: ô nhiễm, suy
thoái môi trường không khí do nồng độ bụi tăng vượt tiêu chuẩn cho phép từ
8-300 lần, tải lượng khí độc (CO, NO, SO2,...) lên tới vài nghìn mg/m3/ngày
đêm. Lượng chất rắn lơ lửng trong nước lớn, ô nhiễm dầu mỡ, nước thải sản xuất
từ các xưởng vượt vài chục lần so với chuẩn cho phép.
2.2
Vấn đề hệ sinh thái:
Sau khi Nhà máy thủy điện Sơn La được xây
dựng và đưa vào hoạt động thì cảnh quan
thiên nhiên ở khu vực này thay đổi rõ rêt. Diện tích rừng bị ngập khoảng 2.500
- 3.100 ha (chiếm khoảng 7,02 - 11,2% tổng diện tích đất ngập) sẽ làm thay đổi
đáng kể cảnh quan thiên nhiên khu vực này.
Do tác động điều hoà dòng chảy giữa mùa
lũ và mùa cạn, chế độ thuỷ văn và thuỷ lực của dòng sông sẽ thay đổi rất khó
xác định, lưu lượng điều tiết sau khi đỉnh lũ qua đi sẽ làm cho mực nước sông
duy trì ở mức cao lâu hơn, gây tác hại đối với đê sông. Các bãi ven sông cũng
ngập lâu hơn, ảnh hưởng tới sản xuất và sinh hoạt của cụm cư dân ngoài đê...
Trong mùa cạn, lượng nước tăng lên hơn hai
lần so với trước đây, làm xói các bìa và lòng sông, mất các diện tích canh tác
của các bãi hai bờ sông... Thực tế cho thấy, dùng hồ nước để cắt lũ, nhưng khi
vượt quá một giới hạn nào đó sẽ xảy ra nghịch lý: cắt được lũ càng lớn, hồ có
dung tích lớn sẽ tạo ra một cơn lũ càng to hơn nữa. Ngoài ra, Thuỷ điện Sơn La
gây ra những biến động làm thay đổi hệ sinh thái ở hạ du đến cửa sông ven bờ
biển, như sự xâm nhập mặn, sự di cư các loài cá, sự thay đổi về chất lượng và
mực nước ngầm, ảnh hưởng tới rừng ngập mặn ven bờ, các rạn san hô...
2.3
Vấn đề an sinh
Đối với 90.000 người dân
thuộc ba tỉnh Sơn La, Lai Châu, Điện Biên phải di dời khỏi khu vực Thủy điện
Sơn La, thì thảm họa đã đến với họ ngay từ khi công trình khởi công cuối năm
2005. Người dân đã phải rời bỏ nhà cửa ruộng vườn để sống cuộc đời tái định cư,
thường là những chương trình đầy khiếm khuyết không làm hài lòng những di dân
bị cưỡng bách.
Vấn đề tái định cư vẫn chưa thể giải quyết
xong khi mà cuộc sống của người dân vẫn chưa ổn định. Theo
báo cáo số 177 của UBND tỉnh Sơn La thì đến hết tháng 6.2013, công tác DDTĐC
Thuỷ điện Sơn La vẫn còn rất nhiều bất cập: Tại một số địa bàn, công tác hỗ trợ
sản xuất, khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, đào tạo chuyển đổi ngành nghề
vẫn chưa đạt hiệu quả; thậm chí một vài huyện còn chưa triển khai tập huấn
khuyến nông cho người dân TĐC. Có những tuyến đường làm dở dang rồi bỏ đó, dân
kêu trời đến mấy năm nay… tại trụ sở Ban quản lý Dự án DDTĐC huyện Mường La, tỉnh Sơn
La, hàng chục người dân và cán bộ các bản chầu chực quanh trụ sở để đòi những
quyền lợi của mình. Đã mấy năm nay, từ khi di dân đến nơi ở mới, họ mất hết
ruộng, vườn để làm lòng hồ thuỷ điện. Cũng vì Nhà nước nợ tiền mà hơn nửa số
dân trong bản mấy năm nay đều thuộc diện đói, nghèo …
2.4
Rủi ro
có thể xảy ra
Từ khi bắt đầu xây dựng đã
lo ngại về sự an toàn của đập thủy điện này vì vị trí nằm trong vùng thường xảy
ra động đất. Ngoài ra người ta còn lo ngại những vấn đề khác liên quan tới an
ninh chính trị vì công trình nằm quá gần biên giới Trung Quốc. Năm 2002 khi
Quốc hội thảo luận về dự án thủy điện Sơn La một đại biểu từng nói rằng nếu đập
Sơn La bị vỡ thì một chiếc xe tăng nặng 4 tấn ở Sơn Tây sẽ bị thổi bay xuống hạ
lưu trôi ra biển trong vòng nửa giờ, Thủ đô Hà Nội và toàn bộ đồng bằng Bắc bộ
sẽ chìm sâu dưới nước.
.
Comments
Post a Comment