Hãy làm rõ vai trò của Nguyễn Ái Quốc trong việc sáng lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam


LỜI MỞ ĐẦU
“Đời bồi bàn lênh đênh theo sóng bể
Người đi hỏi khắp bóng cờ châu Mĩ, châu Âu
Những đất tự do, những trời nô lệ
Những con đường cách mạng đang tìm đi”
Chế Lan Viên đã dành trọn những vần thơ chan chứa nhiều xúc cảm để viết cho Bác Hồ- vị lãnh tụ vĩ đại kính yêu của dân tộc. Suốt cuộc đời mình Bác là người đã chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam cập bến bờ độc lập. Trong cuộc đấu tranh gian khổ ấy sự thành lập Đảng Cộng sản như một bước ngoặt, nó soi đường chỉ lối  cho cách mạng giữa lúc nước nhà đang khủng hoảng sâu sắc về đường lối cứu nước, mang lại độc lập dân tộc, hạnh phúc  cho nhân dân. Nhìn lại quá trình lịch sử của Cách mạng Việt Nam, chúng ta thấy Đảng Cộng sản Việt Nam đã thể hiện vai trò lãnh đạo, chịu trách nhiệm trước giai cấp và dân tộc khi thắng lợi cũng như khó khăn, khi thành công cũng như khi sai lầm, khuyết điểm. Vai trò của Đảng không những được thể hiện trong cuộc kháng chiến trường kì của cả dân tộc mà còn  trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam cho tới ngày nay. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là một tất yếu khách quan của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở Việt Nam, là quá trình lựa chọn con đường cứu nước, tích cực chuẩn bị lâu dài và toàn diện về các mặt tư tưởng, chính trị và tổ chức của  Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí Minh và những người cách mạng Việt Nam, trong đó người có vai trò hàng đầu, có tác động lớn nhất đến việc thành lập Đảng chính là vị lãnh tụ Hồ Chí Minh.
NỘI DUNG     
I.Vai trò của Nguyễn Ái Quốc trong việc đưa cách mạng Việt Nam theo con đường cách mạng vô sản- tạo tiền đề cho việc thành lập đảng
1. Bối cảnh lịch sử Việt Nam trước khi Bác ra đi tìm đường cứu nước
      Cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, dưới tác động của chính sách cai trị và chính sách kinh tế, văn hóa, giáo dục của thực dân Pháp, xã hội Việt nam có sự phân hóa sâu sắc, đặc biệt là sự ra đời của hai giai cấp mới: công nhân và tư sản Việt Nam.Việt Nam trở thành một nước thuộc địa nửa phong kiến với hai mâu thuẫn cơ bản: mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược và mâu thuẫn giữa nhân dân Việt Nam (chủ yếu là nông dân) với giai cấp địa chủ phong kiến. Chính vì lẽ đó, rất nhiều phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc theo khuynh hướng phong kiến và tư sản diễn ra mạnh mẽ, sôi nổi, rộng khắp cả nước. Những phong trào tiêu biểu trong thời kì này là: phong trào Cần Vương kháng Pháp (1885-1896); phong trào Đông du (1906-1908) do nhà yêu nước Phan Bội Châu lãnh đạo, mở đầu cho cuộc vận động giải phóng dân tộc theo khuynh hướng dân chủ tư sản; phong trào Đông kinh nghĩa thục (1907); phong trào Duy Tân (1906-1908) do các sĩ phu yêu nước như cụ Phan Chu Trinh, Trần Quý Cáp, Huỳnh Thúc Kháng… khởi xướng…Tuy nhiên, các phong trào này đều bị đàn áp đẫm máu do thiếu đường lối lãnh đạo đúng đắn, hệ thống tổ chức thiếu chặt chẽ, chưa tập hợp được rộng rãi lực lượng của dân tộc.. mà sâu xa là chưa có giai cấp tiên phong lãnh đạo.
2.Quá trình tìm đường cứu nước của Bác
     Năm 1911, Nguyễn Tất Thành (Nguyễn Ái Quốc) ra đi tìm đường cứu nước. Trong thời gian đó Người đã tìm hiểu kĩ các cuộc cách mạng điển hình trên thế giới. Người đánh giá cao tư tưởng tự do, bình đẳng, bác ái và quyền con người của các cuộc cách mạng tư sản tiêu biểu như:  Cách mạng Mỹ (1776), Cách mạng Pháp (1789)... nhưng Người cũng nhận thấy rằng: “ Cách mệnh Pháp cũng như cách mệnh Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản, cách mệnh không đến nơi, tiếng là cộng hòa và dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước lục công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa”. Bởi lẽ đó, Người không đi theo con đường cách mạng tư sản. Người thấy được Cách mạng Tháng Mười Nga không chỉ là một cuộc cách mạng vô sản, mà còn là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc.
      Vào tháng 7-1920, Nguyễn Ái Quốc đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin đăng trên báo Nhân đạo. Ở đó, Người đã tự tìm được cho mình lời giải đáp về con đường giải phóng dân tộc Việt Nam, về vấn đề thuộc địa trong mối quan hệ với phong trào cách mạng thế giới.
     Tại Đại hội Đảng Xã hội Pháp (tháng 12-1920), Nguyễn Ái Quốc bỏ phiểu tán thành việc gia nhập Quốc tế cộng sản  và tham gia thành lập Đảng Cộng Sản Pháp. Sự kiện này đánh dấu bước ngoặt trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Nguyễn Ái Quốc- từ người yêu nước trở thành người cộng sản.
     Như vậy, vượt qua sự hạn chế về tư tưởng của các sĩ phu và của các nhà cách mạng có xu hướng tư sản đương thời, Hồ Chí Minh đã đến với học thuyết cách mạng của chủ nghĩa Mác Lênin và lựa chọn khuynh hướng chính trị vô sản. Người khẳng định: “ Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”.
II.Vai trò của NAQ trong việc chuẩn bị cho việc thành lập Đảng
1,Chuẩn bị về mặt tư tưởng
     Những năm hoạt động ở nước ngoài, Nguyễn Ái Quốc nhận thấy vấn đề cách mạng thuộc địa không được quan tâm đúng mức nên Người đã đi sâu nghiên cứu, tham gia các diễn đàn, viết báo để tuyên truyền về vấn đề thuộc địa và cách mạng thuộc địa.
     Cuối năm 1917, Người lao vào cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân Pháp, tham gia Đảng xã hội Pháp, lập ra Hội những người Việt Nam yêu nước với tờ báo “Việt Nam hồn” để tuyên truyền giáo dục Việt kiều ở Pháp.
     Tháng 6/1919, Nguyễn Ái Quốc đã thay mặt nhóm người yêu nước Việt Nam tại Pháp gửi “Bản yêu sách của nhân dân An Nam” đến Hội nghị Véc-xây, đòi chính phủ Pháp thừa nhận các quyền tự do, dân chủ và bình đẳng cho nhân dân Việt Nam. Bản yêu sách đã vạch trần tội ác của thực dân Pháp, làm cho nhân dân thế giới và nhân dân Pháp phải chú ý tới tình hình Việt Nam và Đông Dương.
     Từ sau năm 1920, cùng với việc thực hiện nhim vụ đối với phong trào cộng sản quốc tế, Nguyễn Ái Quốc xúc tiến truyền bá chủ nghĩa Mác- Lênin, vạch phương hướng chiến lược cách mạng Việt Nam và chuẩn bị điều kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
     Năm 1922, để đẩy mạnh công tác tuyên truyền và vận động cách mạng ở các thuộc địa, Hội liên hiệp thuộc địa đã xuất bản báo Le Paria (Người cùng khổ). Nguyễn Ái Quốc là linh hồn của tờ báo, vừa là chủ nhiệm, kiêm chủ bút, thủ quỹ, báo xuất bản bằng tiếng Pháp nhưng ở trang đầu còn có tên báo bằng chữ ả rập và chữ Hán. Báo kêu gọi các dân tộc thuộc địa đoàn kết lại để đấu tranh cho sự tiến bộ về vật chất và tinh thần của chính họ, hô hào họ tổ chức lại nhằm mục đích giải phóng những người bị áp bức khỏi những lực lượng thống trị, thực hiện tình yêu thương và hữu ái... Báo Le Paria là vũ khí chiến đấu với sứ mệnh rõ ràng: giải phóng con người. Bên cạnh đó, Người cũng viết nhiều bài đăng  trên báo “Nhân đạo” của Đảng cộng sản Pháp, báo “Đời sống công nhân của Tổng Liên đoàn Lao động Pháp.
     Đến năm 1923, Nguyễn Ái Quốc rời Pháp đi Mátxcơva đê tham dự Hội nghị Quốc tế nông dân, trong bài phát biểu tại Hội nghị Quốc tế Nông dân, Nguyễn Ái Quốc đã tố cáo những thủ đoạn thực dân để biến nông dân thành nô lệ với hai bàn tay trắng. Vì vậy người nông dân không còn đường sống mà phải đấu tranh, họ là lực lượng cách mạng vô cùng to lớn. Kết thúc bài phát biểu Nguyễn Ái Quốc kêu gọi: "Thưa các đồng chí, tôi phải nhắc lại với các đồng chí rằng Quốc tế của các đồng chí chỉ trở thành một Quốc tế thật sự khi mà không những nông dân phương Tây, mà cả nông dân ở phương Đông, nhất là nông dân ở các thuộc địa là những người bị bóc lột và bị áp bức nhiều hơn các đồng chí, đều tham gia Quốc tế của các đồng chí". Trong khoảng thời gian ở Liên Xô, Người trực tiếp học tập nghiên cứu kinh nghiệm Cách mạng Tháng Mười Nga và chủ nghía Mác Lê-nin. Người  còn có nhiều bài cho các báo “Sự thật” (Cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng sản Liên Xô) và tạp chí “Thư tín Quốc tế” của Quốc tế Cộng sản.
     Qua các bài báo, tạp chí, Nguyễn Ái Quốc đã góp phần quan trọng vào  việc tố cáo tội ác của chủ nghĩa thực dân Pháp ở các thuộc địa, đồng thời tiến hành tuyên truyền chủ nghĩa Mác Lê-nin, xây dựng mối quan hệ gắn bó giữa những người cộng sản và nhân dân lao động.
     Năm 1924, Người tham dự Đại hội lần thứ V của Quốc tế Cộng sản ở Liên Xô và các đại hội của Quốc tế Công hội, Quốc tế Phụ nữ, Quốc tế Thanh niên,… và nhất là Đại hội làn V đã có bản báo cáo rất quan trọng về dân tộc và thuộc địa, kiên trì bảo vệ và phát triển sáng tạo một số luận điểm quan trọng của Lê-nin về bản chất chủ nghĩa thực dân và nhiệm vụ của các Đảng Cộng sản trên thế giới trong cuộc đấu tranh chống áp bức bóc lột, đấu tranh giải phóng dân tộc ở các thuộc địa.
     “Bản án chế độ thực dân Pháp” (năm 1925) mặc dù bị nhà cầm quyền Pháp tìm mọi cách ngăn chặn, cấm đoán, các sách báo nói trên vẫn được bí mật truyền về Việt Nam vạch rõ âm mưu, thủ đoạn của chủ nghĩa đế quốc, từ đó khơi dậy tinh thần yêu nước, tinh thần dân tộc để đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược: “Chủ nghĩa tư bản là một con đỉa có một cái vòi bám vào giai cấp vô sản ở chính quốc và một vòi khác bám vào giai cấp vô sản thuộc địa. Nếu muốn giết con vật ấy người ta phải đồng thời cắt cả hai vòi. Nếu người ta chỉ cắt một vòi thôi thì cái vòi còn lại kia sẽ tiếp tục hút máu của giai cấp vô sản, con vật vẫn tiếp tục sống và cái vòi bị đứt sẽ lại mọc ra”.
     Giai đoạn 1925-1927, cùng với việc đào tạo cán bộ, Nguyễn Ái Quốc đã tổ chức ra các tờ báo Thanh niên, Công nông, Lính cách mệnh, Tiền phong nhằm truyền bá chủ nghĩa Mác Lê-nin vào Việt Nam.
     Thời gian này tuy chưa thành lập chính đảng của giai cấp vô sản ở Việt Nam, nhưng những tư tưởng Người truyền bá sẽ làm nền tảng tư tưởng của Đảng sau này, đó là:
-Chủ nghĩa tư bản, đế quốc là kẻ thù chung của giai cấp vô sản các nước và nhân dân thuộc địa, đó là mối quan hệ mật thiết giữa cách mạng chính quốc và thuộc địa.
-Xác định giai cấp công nhân và nông dân là lực lượng nòng cốt của cách mạng.
-Giai cấp công nhân có đủ khả năng lãnh đạo cách mạng, thông qua đội tiên phong là Đảng Cộng sản.
Trong qua trình chuẩn bị về mặt tư tưởng cho quá trình thành lập Đảng, bên cạnh việc tiếp thu chủ nghĩa Mác Lê-nin, Người còn phát triển và vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh cách mạng Việt Nam. Khi đề cập đến sự hình thành Đảng Cộng sản Việt Nam, bên cạnh hai yếu tố chủ nghĩa Mác Lê-nin và phong trào công nhân. Hồ Chí Minh còn kể đến yếu tố thứ ba là phong trào yêu nước.
2. Chuẩn bị về tổ chức
     Năm 1921, Nguyễn Ái Quốc cùng một số chiến sĩ cách mạng ở nhiều nước thuộc địa của Pháp thành lập Hội Liên hiệp thuộc địa nhằm tổ chức và lãnh đạo phong trào cách mạng giải phóng dân tộc Điều lệ của Hội nêu rõ: "Mục đích của Hội là tập hợp và hướng dẫn cho mọi người dân các xử thuộc địa hiện sống trên đất Pháp để soi sáng cho những người dân ở thuộc địa về tình hình mọi mặt ở nước Pháp nhằm mục đích đoàn kết họ; thảo luận và nghiên cứu tất cả những vấn đề chính trị và kinh tế của thuộc địa". Tuyên ngôn của Hội kêu gọi nhân dân thuộc địa đoàn kết đấu tranh tự giải phóng và nhấn mạnh: "Vận dụng công thức của Các Mác chúng tôi xin nói với anh em rằng, công cuộc giải phóng anh em chỉ có thể thực hiện bằng sự nỗ lực của bản thân anh em. Hội liên hiệp thuộc địa thành lập chính là để giúp đỡ anh em trong công cuộc ấy".
      9/7/1925, Người cùng với các nhà cách mạng Trung Quốc, Thái Lan, Ấn Độ,… sáng lập Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức đã nêu bật được tầm quan trọng của vấn đề đoàn kết dân tộc trên thế giới.
     6/1925, Người thành lập Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên với cơ quan tuyên truyền của Hội là báo Thanh niên. Sau khi thành lập, Hội đã mở các lớp đào tạo bồi dưỡng lý luận chủ nghĩa Mác lê-nin và lý luận giải phóng dân tộc cho những người trong tổ chức nhằm thúc đẩy sự phát triển phong trào cách mạng Việt Nam, chống lại những đường lối dân tộc chủ nghĩa hẹp hòi tiểu tư sản. Hội đã giáo dục và giác ngộ nhiều người yêu nước chân chính theo con đường Hồ Chí Minh, đào tào và rèn luyện họ thành những chiến sĩ cách mạng trung thành, làm nòng cốt trong việc thành lập Đảng Cộng sản sau này.
     Từ năm 1925-1927, Người mở nhiều lớp huấn luyện chính trị tại Quảng Châu, đào tạo nên đội ngũ cán bộ cho cách mạng Việt Nam. Những bài giảng ở đây của Người đã được tập hợp thành cuốn “Đường cách mệnh”. Một trong những vấn đề đầu tiên Nguyễn A'i Quốc đặc biệt quan tâm là đào tạo những người tự nguyện hy sinh phấn đấu suốt đời cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người; hiểu lý luận Mác - Lênin; biết đoàn kết và tổ chức nhân dân cùng phấn đấu vì sự nghiệp chung. Phân tích những bài học kinh nghiệm của nhiều cuộc cách mạng trên thế giới, Nguyễn A'i Quốc nêu rõ cách mạng Việt Nam phải theo gương cách mạng Nga đánh đuổi đế quốc giành độc lập dân tộc, đánh đổ phong kiến tay sai đem lại ruộng đất cho nông dân
     Năm 1928, Hội thực hiện chủ trương “vô sản hóa”, đưa hội viên vào nhà máy, hầm mỏ, đồn điền để rèn luyện lập trường, quan điểm giai cấp công nhân, để truyền bá chủ nghĩa Mác Lê-nin và lý luận giải phóng dân tộc vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước ,đồng thời xây dựng các tổ chức cơ sở của Hội ở nhiều trung tâm kinh tế, chính trị quan trọng nhằm thúc đẩy sự phát triển phong trào cách mạng Việt Nam.
     Ngoài việc trực tiếp huấn luyện cán bộ của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, Nguyễn Ái Quốc còn lựa chọn những thanh niên Việt Nam ưu tú gửi đi học tại trường đại học Phương Đông (Liên Xô) và trường Lục quân Hoàng Phố (Trung Quốc) nhằm đào tạo cán bộ cho cách mạng Việt Nam.
     Như vậy, trong giai đoạn 1921-1930, Nguyễn Ái Quốc cùng với những chiến sĩ cách mạng đã có những bước chuẩn bị cần thiết, chu đáo về mặt tổ chức để tiến tới thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
3. Chuẩn bị về chính trị
Sự chuẩn bị về mặt chính trị cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam của Nguyễn Ái Quốc được thể hiện thông qua các quan điểm sau:
- Chỉ rõ bản chất của Chủ nghĩa thực dân, xác định chủ nghĩa thực dân là kẻ thù chung của các dân tộc thuộc địa, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên thế giới
- Xác định cách mạng giải phóng dân tộc là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới. Cách mạng  giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và cách mạng chính quốc có mối quan hệ chặt chẽ, hỗ trợ thúc đẩy cho nhau, nhưng không phụ thuộc vào nhau
- Cách mạng cần phải lôi cuốn được sự tham gia của nông dân, xây dựng khối công nông làm nòng cốt và là động lực cách mạng
- Cách mạng muốn giành được thắng lợi, trước hết phải có Đảng cách mạng nắm vai trò lãnh đạo. Đảng muốn vững phải được trang bị chủ nghĩa Mác – LêNin
- Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân, chứ không phải của một hai người

 III.NAQ và hội nghị thành lập Đảng
     Trước sự phát triển của phong trào công nhân và phong trào yêu nước dẫn tới việc các tổ chức cộng sản ra đời: Đông Dương cộng sản Đảng (6/1929), An Nam cộng sản Đảng (mùa thu năm 1929), Đông Dương cộng sản Liên đoàn (9/1929). Việc phân tán, chia rẽ giưa các tổ chức cộng sản đã ảnh hưởng xấu đến phong trào cách mạng Việt Nam. Vì vậy, những người cộng sản đã nhân thức được nhiệm vụ cấp thiết, cấp bách phải thành lập một đảng cộng sản thống nhất. Ngày 27/10/1929, Quốc tế cộng sản gửi tài liệu “Về việc thành lập một Đảng Cộng sản ở Đông Dương” yêu cầu  khắc phục sự chia rẽ giữa các tổ chức cộng sản và thành lập một đảng của giai cấp vô sản
     Nhận được tin, Nguyễn Ái Quốc rời Xiêm, đến Trung Quốc, chủ trì Hội nghị hợp nhất Đảng, tại Hương Cảng, Trung Quốc tiến hành từ ngày 6/1 đến ngày 7/2 năm 1930. Hội nghị nhất trí với Năm điểm lớn theo đề nghị của Nguyễn Ái Quốc và quyết định hợp nhất các tổ chức cộng sản thành một chính đảng duy nhất của Việt Nam lấy tên Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị thảo luận và thông qua các văn kiện: Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam. Ngày 24/2/1930, theo yêu cầu của Đông Dương Cộng sản Liên đoàn, Ban chấp hành Trung ương lâm thời họp và ra Nghị quyết chấp nhận Đông Dương Cộng sản Liên đoàn gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam. Như vậy, đến ngày 24/2/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam đã hoàn thành việc hợp nhất ba tổ chức cộng sản Việt Nam. Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (9/1960) quyết định lấy ngày 3/2/1930 là ngày kỷ niệm thành lập Đảng.





KẾT LUẬN
     Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là kết quả tất yếu khách quan của cuộc đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp, không những khẳng định vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân Việt Nam và hệ tư tưởng Mác – LêNin đối với cách mạng Việt Nam mà còn đánh dấu sự trưởng thành của giai cấp công nhân Việt Nam đã đủ sức đảm đương sứ mệnh lịch sử của mình là lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Đảng ra đời là một bước ngoặt lớn của phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc cũng như của lịch sư Việt Nam. Đảng ra đời chấm dứt thời kì khủng hoảng và bế tắt về đường lối phong trào yêu nước, về giai cấp lãnh đạo. Sự ra đời của Đảng là sự góp sức của những con người cách mạng, mà người đóng vai trò quan trọng là Nguyễn Ái Quốc, Người đã tiếp thu và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam và kết hợp những truyền thống ấy với tư tưởng cách mạng triệt để của thời đại ngày nay, tư tưởng Mác Lê-nin. Người không những bôn ba đi tìm đường cứu nước, hướng Việt Nam đi theo con đường cách mạng vô sản, tạo tiền đề cho việc thành lập Đảng  mà còn tích cực chuẩn bị mọi mặt về tư tưởng, tổ chức, chính trị để đến ngày 3/2/1930 đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong sự nghiệp chống thực dân Pháp của nhân dân ta, đó là việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, mở ra một trang sử mới đầy vẻ vang của dân tộc Việt Nam. Thực tiễn quá trình vận động của cách mạng Việt Nam trong hơn 80 năm qua là minh chứng rõ rệt cho tính khoa học, tính cách mạng, tính đúng đắn và tiến bộ trong những đường lối, chủ trương của Đảng. Như vậy thông qua việc nghiên cứu vai trò của Nguyễn Ái Quốc trong việc sáng lập ra Đảng Cộng sản chúng ta cũng có thể thấy vai trò của Người đối với cách mạng Việt Nam, nhân dân Việt Nam cũng như phong trào cách mạng trên toàn thế giới.


Tài liệu tham khảo
1.Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh-NXB Chính trị quốc gia
2.Giáo trình Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam-NXB chính trị quốc gia
























Comments

Popular posts from this blog

Gà rim mật ong

Phương pháp tính chỉ số chứng khoán và một số chỉ số chứng khoán tiêu biểu

Phân tích đầu tư chứng khoán: Công ty cổ phần Vĩnh Hoàn VHC