Hãy làm rõ vai trò của Nguyễn Ái Quốc trong việc sáng lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam
LỜI
MỞ ĐẦU
“Đời
bồi bàn lênh đênh theo sóng bể
Người
đi hỏi khắp bóng cờ châu Mĩ, châu Âu
Những
đất tự do, những trời nô lệ
Những
con đường cách mạng đang tìm đi”
Chế Lan Viên đã dành trọn
những vần thơ chan chứa nhiều xúc cảm để viết cho Bác Hồ- vị lãnh tụ vĩ đại
kính yêu của dân tộc. Suốt cuộc đời mình Bác là người đã chèo lái con thuyền
cách mạng Việt Nam cập bến bờ độc lập. Trong cuộc đấu tranh gian khổ ấy sự
thành lập Đảng Cộng sản như một bước ngoặt, nó soi đường chỉ lối cho cách mạng giữa lúc nước nhà đang khủng hoảng
sâu sắc về đường lối cứu nước, mang lại độc lập dân tộc, hạnh phúc cho nhân dân. Nhìn lại quá trình lịch sử của
Cách mạng Việt Nam, chúng ta thấy Đảng Cộng sản Việt Nam đã thể hiện vai trò
lãnh đạo, chịu trách nhiệm trước giai cấp và dân tộc khi thắng lợi cũng như khó
khăn, khi thành công cũng như khi sai lầm, khuyết điểm. Vai trò của Đảng không
những được thể hiện trong cuộc
kháng chiến trường kì của cả dân tộc mà còn trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam cho tới ngày nay. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là một tất yếu khách
quan của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở Việt Nam, là quá trình lựa chọn
con đường cứu nước, tích cực chuẩn bị lâu dài và toàn diện về các mặt tư tưởng,
chính trị và tổ chức của Nguyễn Ái Quốc-
Hồ Chí Minh và những người cách mạng Việt Nam, trong đó người có vai trò hàng đầu,
có tác động lớn nhất đến việc thành lập Đảng chính là vị lãnh tụ Hồ Chí Minh.
NỘI DUNG
I.Vai trò của Nguyễn Ái Quốc
trong việc đưa cách mạng Việt Nam theo con đường cách mạng vô sản- tạo tiền đề
cho việc thành lập đảng
1.
Bối cảnh lịch sử Việt Nam trước khi Bác ra đi tìm đường cứu nước
Cuối
thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, dưới tác động của chính sách cai trị và chính sách
kinh tế, văn hóa, giáo dục của thực dân Pháp, xã hội Việt nam có sự phân hóa
sâu sắc, đặc biệt là sự ra đời của hai giai cấp mới: công nhân và tư sản Việt
Nam.Việt Nam trở thành một nước thuộc địa nửa phong kiến với hai mâu thuẫn cơ bản:
mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược và mâu thuẫn
giữa nhân dân Việt Nam (chủ yếu là nông dân) với giai cấp địa chủ phong kiến.
Chính vì lẽ đó, rất nhiều phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc theo khuynh
hướng phong kiến và tư sản diễn ra mạnh mẽ, sôi nổi, rộng khắp cả nước. Những
phong trào tiêu biểu trong thời kì này là: phong trào Cần Vương kháng Pháp
(1885-1896); phong trào Đông du (1906-1908) do nhà yêu nước Phan Bội Châu lãnh
đạo, mở đầu cho cuộc vận động giải phóng dân tộc theo khuynh hướng dân chủ tư sản;
phong trào Đông kinh nghĩa thục (1907); phong trào Duy Tân (1906-1908) do các
sĩ phu yêu nước như cụ Phan Chu Trinh, Trần Quý Cáp, Huỳnh Thúc Kháng… khởi xướng…Tuy
nhiên, các phong trào này đều bị đàn áp đẫm máu do thiếu đường lối lãnh đạo
đúng đắn, hệ thống tổ chức thiếu chặt chẽ, chưa tập hợp được rộng rãi lực lượng
của dân tộc.. mà sâu xa là chưa có giai cấp tiên phong lãnh đạo.
2.Quá
trình tìm đường cứu nước của Bác
Năm 1911, Nguyễn
Tất Thành (Nguyễn Ái Quốc) ra đi tìm đường cứu nước. Trong thời gian đó Người đã tìm hiểu kĩ
các cuộc cách mạng điển hình trên thế giới. Người đánh giá cao tư tưởng tự do,
bình đẳng, bác ái và quyền con người của các cuộc cách mạng tư sản tiêu biểu như:
Cách mạng Mỹ
(1776), Cách mạng Pháp (1789)... nhưng Người cũng nhận thấy rằng: “ Cách mệnh
Pháp cũng như cách mệnh Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản, cách mệnh không đến nơi,
tiếng là cộng hòa và dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước lục công nông, ngoài thì
nó áp bức thuộc địa”. Bởi lẽ đó, Người không đi theo con đường cách mạng tư sản. Người thấy
được Cách mạng Tháng Mười Nga không chỉ là một cuộc cách mạng vô sản, mà còn là
một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc.
Vào tháng 7-1920, Nguyễn Ái Quốc đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc
địa của Lênin đăng trên báo Nhân đạo. Ở đó, Người đã tự tìm được cho mình lời
giải đáp về con đường giải phóng dân tộc Việt Nam, về vấn đề thuộc địa trong mối
quan hệ với phong trào cách mạng thế giới.
Tại Đại hội Đảng Xã hội Pháp (tháng 12-1920), Nguyễn Ái Quốc bỏ phiểu tán
thành việc gia nhập Quốc tế cộng sản và
tham gia thành lập Đảng Cộng Sản Pháp. Sự kiện này đánh dấu bước ngoặt trong cuộc
đời hoạt động cách mạng của Nguyễn Ái Quốc- từ người yêu nước trở thành người cộng
sản.
Như vậy, vượt qua sự hạn chế về tư tưởng của các sĩ phu và của các nhà cách
mạng có xu hướng tư sản đương thời, Hồ Chí Minh đã đến với học thuyết cách mạng
của chủ nghĩa Mác Lênin và lựa chọn khuynh hướng chính trị vô sản. Người khẳng
định: “ Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có
con đường nào khác con đường cách
mạng vô sản”.
II.Vai trò của NAQ trong việc
chuẩn bị cho việc thành lập Đảng
1,Chuẩn bị về mặt tư tưởng
Những năm hoạt động ở nước ngoài, Nguyễn
Ái Quốc nhận thấy vấn đề cách mạng thuộc địa không được quan tâm đúng mức nên
Người đã đi sâu nghiên cứu, tham gia các diễn đàn, viết báo để tuyên truyền về
vấn đề thuộc địa và cách mạng thuộc địa.
Cuối năm 1917, Người lao vào cuộc đấu
tranh của giai cấp công nhân Pháp, tham gia Đảng xã hội Pháp, lập ra Hội những
người Việt Nam yêu nước với tờ báo “Việt Nam hồn” để tuyên truyền giáo dục Việt
kiều ở Pháp.
Tháng 6/1919, Nguyễn Ái Quốc đã thay mặt
nhóm người yêu nước Việt Nam tại Pháp gửi “Bản yêu sách của nhân dân An Nam” đến
Hội nghị Véc-xây, đòi chính phủ Pháp thừa nhận các quyền tự do, dân chủ và bình
đẳng cho nhân dân Việt Nam. Bản yêu sách đã vạch trần tội ác của thực dân Pháp,
làm cho nhân dân thế giới và nhân dân Pháp phải chú ý tới tình hình Việt Nam và
Đông Dương.
Từ sau năm 1920, cùng với việc thực hiện nhiệm vụ đối với phong trào cộng sản quốc tế, Nguyễn Ái Quốc
xúc tiến truyền bá chủ nghĩa Mác- Lênin, vạch phương hướng chiến lược cách mạng
Việt Nam và chuẩn bị điều kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Năm 1922, để đẩy mạnh công tác tuyên truyền
và vận động cách mạng ở các thuộc địa, Hội liên hiệp thuộc địa đã xuất bản báo
Le Paria (Người cùng khổ). Nguyễn Ái Quốc là linh hồn của tờ báo, vừa là chủ
nhiệm, kiêm chủ bút, thủ quỹ, báo xuất bản bằng tiếng Pháp nhưng ở trang đầu
còn có tên báo bằng chữ ả rập và chữ Hán. Báo kêu gọi các dân tộc thuộc địa
đoàn kết lại để đấu tranh cho sự tiến bộ về vật chất và tinh thần của chính họ,
hô hào họ tổ chức lại nhằm mục đích giải phóng những người bị áp bức khỏi những
lực lượng thống trị, thực hiện tình yêu thương và hữu ái... Báo Le Paria là vũ
khí chiến đấu với sứ mệnh rõ ràng: giải phóng con người. Bên cạnh đó, Người
cũng viết nhiều bài đăng trên báo “Nhân
đạo” của Đảng cộng sản Pháp, báo “Đời sống công nhân của Tổng Liên đoàn Lao động
Pháp.
Đến năm 1923, Nguyễn Ái Quốc rời Pháp đi
Mátxcơva đê tham dự Hội nghị Quốc tế nông dân, trong bài phát biểu tại Hội nghị
Quốc tế Nông dân, Nguyễn Ái Quốc đã tố cáo những thủ đoạn thực dân để biến nông
dân thành nô lệ với hai bàn tay trắng. Vì vậy người nông dân không còn đường sống
mà phải đấu tranh, họ là lực lượng cách mạng vô cùng to lớn. Kết thúc bài phát
biểu Nguyễn Ái Quốc kêu gọi: "Thưa các đồng chí, tôi phải nhắc lại
với các đồng chí rằng Quốc tế của các đồng chí chỉ trở thành một Quốc tế thật sự
khi mà không những nông dân phương Tây, mà cả nông dân ở phương Đông, nhất là
nông dân ở các thuộc địa là những người bị bóc lột và bị áp bức nhiều hơn các đồng
chí, đều tham gia Quốc tế của các đồng chí". Trong khoảng thời gian ở
Liên Xô, Người trực tiếp học tập nghiên cứu kinh nghiệm Cách mạng Tháng Mười
Nga và chủ nghía Mác Lê-nin. Người còn có
nhiều bài cho các báo “Sự thật” (Cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng sản Liên Xô)
và tạp chí “Thư tín Quốc tế” của Quốc tế Cộng sản.
Qua các bài báo, tạp chí, Nguyễn Ái Quốc
đã góp phần quan trọng vào việc tố cáo tội
ác của chủ nghĩa thực dân Pháp ở các thuộc địa, đồng thời tiến hành tuyên truyền
chủ nghĩa Mác Lê-nin, xây dựng mối quan hệ gắn bó giữa những người cộng sản và
nhân dân lao động.
Năm 1924, Người tham dự Đại hội lần thứ V
của Quốc tế Cộng sản ở Liên Xô và các đại hội của Quốc tế Công hội, Quốc tế Phụ
nữ, Quốc tế Thanh niên,… và nhất là Đại hội làn V đã có bản báo cáo rất quan trọng
về dân tộc và thuộc địa, kiên trì bảo vệ và phát triển sáng tạo một số luận điểm
quan trọng của Lê-nin về bản chất chủ nghĩa thực dân và nhiệm vụ của các Đảng Cộng
sản trên thế giới trong cuộc đấu tranh chống áp bức bóc lột, đấu tranh giải
phóng dân tộc ở các thuộc địa.
“Bản án chế độ thực dân Pháp” (năm 1925) mặc
dù bị nhà cầm quyền Pháp tìm mọi cách ngăn chặn, cấm đoán, các sách báo nói
trên vẫn được bí mật truyền về Việt Nam vạch rõ âm mưu, thủ đoạn của chủ nghĩa
đế quốc, từ đó khơi dậy tinh thần yêu nước, tinh thần dân tộc để đánh đuổi thực
dân Pháp xâm lược: “Chủ nghĩa tư bản là một con đỉa có một cái vòi bám vào giai
cấp vô sản ở chính quốc và một vòi khác bám vào giai cấp vô sản thuộc địa. Nếu
muốn giết con vật ấy người ta phải đồng thời cắt cả hai vòi. Nếu người ta chỉ cắt
một vòi thôi thì cái vòi còn lại kia sẽ tiếp tục hút máu của giai cấp vô sản,
con vật vẫn tiếp tục sống và cái vòi bị đứt sẽ lại mọc ra”.
Giai đoạn 1925-1927, cùng với việc đào tạo
cán bộ, Nguyễn Ái Quốc đã tổ chức ra các tờ báo Thanh niên, Công nông, Lính
cách mệnh, Tiền phong nhằm truyền bá chủ nghĩa Mác Lê-nin vào Việt Nam.
Thời gian này tuy chưa thành lập chính đảng
của giai cấp vô sản ở Việt Nam, nhưng những tư tưởng Người truyền bá sẽ làm nền
tảng tư tưởng của Đảng sau này, đó là:
-Chủ
nghĩa tư bản, đế quốc là kẻ thù chung của giai cấp vô sản các nước và nhân dân
thuộc địa, đó là mối quan hệ mật thiết giữa cách mạng chính quốc và thuộc địa.
-Xác
định giai cấp công nhân và nông dân là lực lượng nòng cốt của cách mạng.
-Giai
cấp công nhân có đủ khả năng lãnh đạo cách mạng, thông qua đội tiên phong là Đảng
Cộng sản.
Trong qua trình chuẩn bị
về mặt tư tưởng cho quá trình thành lập Đảng, bên cạnh việc tiếp thu chủ nghĩa
Mác Lê-nin, Người còn phát triển và vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh cách mạng
Việt Nam. Khi đề cập đến sự hình thành Đảng Cộng sản Việt Nam, bên cạnh hai yếu
tố chủ nghĩa Mác Lê-nin và phong trào công nhân. Hồ Chí Minh còn kể đến yếu tố
thứ ba là phong trào yêu nước.
2. Chuẩn bị về tổ chức
Năm 1921, Nguyễn Ái Quốc cùng một số chiến
sĩ cách mạng ở nhiều nước thuộc địa của Pháp thành lập Hội Liên hiệp thuộc địa nhằm tổ chức và lãnh đạo phong trào cách mạng
giải phóng dân tộc Điều lệ của Hội nêu rõ: "Mục đích của Hội là tập hợp và
hướng dẫn cho mọi người dân các xử thuộc địa hiện sống trên đất Pháp để soi
sáng cho những người dân ở thuộc địa về tình hình mọi mặt ở nước Pháp nhằm mục
đích đoàn kết họ; thảo luận và nghiên cứu tất cả những vấn đề chính trị và kinh
tế của thuộc địa". Tuyên ngôn của Hội kêu gọi nhân dân thuộc địa đoàn kết
đấu tranh tự giải phóng và nhấn mạnh: "Vận dụng công thức của Các Mác chúng tôi xin nói với anh em rằng,
công cuộc giải phóng anh em chỉ có thể thực hiện bằng sự nỗ lực của bản thân
anh em. Hội liên hiệp thuộc địa thành lập chính là để giúp đỡ anh em trong công
cuộc ấy".
9/7/1925,
Người cùng với các nhà cách mạng Trung Quốc, Thái Lan, Ấn Độ,… sáng lập Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức đã
nêu bật được tầm quan trọng của vấn đề đoàn kết dân tộc trên thế giới.
6/1925, Người thành lập Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên với cơ
quan tuyên truyền của Hội là báo Thanh
niên. Sau khi thành lập, Hội đã mở các lớp đào tạo bồi dưỡng lý luận chủ
nghĩa Mác lê-nin và lý luận giải phóng dân tộc cho những người trong tổ chức nhằm
thúc đẩy sự phát triển phong trào cách mạng Việt Nam, chống lại những đường lối
dân tộc chủ nghĩa hẹp hòi tiểu tư sản. Hội đã giáo dục và giác ngộ nhiều người
yêu nước chân chính theo con đường Hồ Chí Minh, đào tào và rèn luyện họ thành
những chiến sĩ cách mạng trung thành, làm nòng cốt trong việc thành lập Đảng Cộng
sản sau này.
Từ năm 1925-1927, Người mở nhiều lớp huấn
luyện chính trị tại Quảng Châu, đào tạo nên đội ngũ cán bộ cho cách mạng Việt
Nam. Những bài giảng ở đây của Người đã được tập hợp thành cuốn “Đường cách mệnh”.
Một trong những vấn đề đầu tiên Nguyễn A'i Quốc đặc biệt quan tâm là đào tạo những
người tự nguyện hy sinh phấn đấu suốt đời cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải
phóng xã hội, giải phóng con người; hiểu lý luận Mác - Lênin; biết đoàn kết và
tổ chức nhân dân cùng phấn đấu vì sự nghiệp chung. Phân tích những bài học kinh
nghiệm của nhiều cuộc cách mạng trên thế giới, Nguyễn A'i Quốc nêu rõ cách mạng
Việt Nam phải theo gương cách mạng Nga đánh đuổi đế quốc giành độc lập dân tộc,
đánh đổ phong kiến tay sai đem lại ruộng đất cho nông dân
Năm 1928, Hội thực hiện chủ trương “vô sản
hóa”, đưa hội viên vào nhà máy, hầm mỏ, đồn điền để rèn luyện lập trường, quan
điểm giai cấp công nhân, để truyền bá chủ nghĩa Mác Lê-nin và lý luận giải
phóng dân tộc vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước ,đồng thời xây dựng
các tổ chức cơ sở của Hội ở nhiều trung tâm kinh tế, chính trị quan trọng nhằm
thúc đẩy sự phát triển phong trào cách mạng Việt Nam.
Ngoài việc trực tiếp huấn luyện cán bộ của
Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, Nguyễn Ái Quốc còn lựa chọn những thanh niên
Việt Nam ưu tú gửi đi học tại trường đại học Phương Đông (Liên Xô) và trường Lục
quân Hoàng Phố (Trung Quốc) nhằm đào tạo cán bộ cho cách mạng Việt Nam.
Như vậy, trong giai đoạn 1921-1930, Nguyễn
Ái Quốc cùng với những chiến sĩ cách mạng đã có những bước chuẩn bị cần thiết,
chu đáo về mặt tổ chức để tiến tới thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
3. Chuẩn bị về chính trị
Sự
chuẩn bị về mặt chính trị cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam của Nguyễn
Ái Quốc được thể hiện thông qua các quan điểm sau:
-
Chỉ rõ bản chất của Chủ nghĩa thực dân, xác định chủ nghĩa thực dân là kẻ thù
chung của các dân tộc thuộc địa, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động
trên thế giới
-
Xác định cách mạng giải phóng dân tộc là một bộ phận của cách mạng vô sản thế
giới. Cách mạng giải phóng dân tộc ở các
nước thuộc địa và cách mạng chính quốc có mối quan hệ chặt chẽ, hỗ trợ thúc đẩy
cho nhau, nhưng không phụ thuộc vào nhau
-
Cách mạng cần phải lôi cuốn được sự tham gia của nông dân, xây dựng khối công
nông làm nòng cốt và là động lực cách mạng
-
Cách mạng muốn giành được thắng lợi, trước hết phải có Đảng cách mạng nắm vai
trò lãnh đạo. Đảng muốn vững phải được trang bị chủ nghĩa Mác – LêNin
-
Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân, chứ không phải của một hai người
III.NAQ và hội nghị thành lập Đảng
Trước sự phát triển của phong trào công
nhân và phong trào yêu nước dẫn tới việc các tổ chức cộng sản ra đời: Đông
Dương cộng sản Đảng (6/1929), An Nam cộng sản Đảng (mùa thu năm 1929), Đông
Dương cộng sản Liên đoàn (9/1929). Việc phân tán, chia rẽ giưa các tổ chức cộng
sản đã ảnh hưởng xấu đến phong trào cách mạng Việt Nam. Vì vậy, những người cộng
sản đã nhân thức được nhiệm vụ cấp thiết, cấp bách phải thành lập một đảng cộng
sản thống nhất. Ngày 27/10/1929, Quốc tế cộng sản gửi tài liệu “Về việc thành lập
một Đảng Cộng sản ở Đông Dương” yêu cầu
khắc phục sự chia rẽ giữa các tổ chức cộng sản và thành lập một đảng của
giai cấp vô sản
Nhận được tin, Nguyễn Ái Quốc rời Xiêm, đến
Trung Quốc, chủ trì Hội nghị hợp nhất Đảng, tại Hương Cảng, Trung Quốc tiến
hành từ ngày 6/1 đến ngày 7/2 năm 1930. Hội nghị nhất trí với Năm điểm lớn theo
đề nghị của Nguyễn Ái Quốc và quyết định hợp nhất các tổ chức cộng sản thành một
chính đảng duy nhất của Việt Nam lấy tên Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị thảo
luận và thông qua các văn kiện: Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương
trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam. Ngày 24/2/1930, theo
yêu cầu của Đông Dương Cộng sản Liên đoàn, Ban chấp hành Trung ương lâm thời họp
và ra Nghị quyết chấp nhận Đông Dương Cộng sản Liên đoàn gia nhập Đảng Cộng sản
Việt Nam. Như vậy, đến ngày 24/2/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam đã hoàn thành việc
hợp nhất ba tổ chức cộng sản Việt Nam. Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
III của Đảng (9/1960) quyết định lấy ngày 3/2/1930 là ngày kỷ niệm thành lập Đảng.
KẾT LUẬN
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là kết
quả tất yếu khách quan của cuộc đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp, không
những khẳng định vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân Việt Nam và hệ tư tưởng
Mác – LêNin đối với cách mạng Việt Nam mà còn đánh dấu sự trưởng thành của giai
cấp công nhân Việt Nam đã đủ sức đảm đương sứ mệnh lịch sử của mình là lãnh đạo
cách mạng Việt Nam. Đảng ra đời là một bước ngoặt lớn của phong trào đấu tranh
giải phóng dân tộc cũng như của lịch sư Việt Nam. Đảng ra đời chấm dứt thời kì
khủng hoảng và bế tắt về đường lối phong trào yêu nước, về giai cấp lãnh đạo. Sự
ra đời của Đảng là sự góp sức của những con người cách mạng, mà người đóng vai
trò quan trọng là Nguyễn Ái Quốc, Người đã tiếp thu và phát huy truyền thống tốt
đẹp của dân tộc Việt Nam và kết hợp những truyền thống ấy với tư tưởng cách mạng
triệt để của thời đại ngày nay, tư tưởng Mác Lê-nin. Người không những bôn ba
đi tìm đường cứu nước, hướng Việt Nam đi theo con đường cách mạng vô sản, tạo
tiền đề cho việc thành lập Đảng mà còn
tích cực chuẩn bị mọi mặt về tư tưởng, tổ chức, chính trị để đến ngày 3/2/1930
đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong sự nghiệp chống thực dân Pháp của nhân
dân ta, đó là việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, mở ra một trang sử mới đầy
vẻ vang của dân tộc Việt Nam. Thực tiễn quá trình vận động của cách mạng Việt
Nam trong hơn 80 năm qua là minh chứng rõ rệt cho tính khoa học, tính cách mạng,
tính đúng đắn và tiến bộ trong những đường lối, chủ trương của Đảng. Như vậy
thông qua việc nghiên cứu vai trò của Nguyễn Ái Quốc trong việc sáng lập ra Đảng
Cộng sản chúng ta cũng có thể thấy vai trò của Người đối với cách mạng Việt
Nam, nhân dân Việt Nam cũng như phong trào cách mạng trên toàn thế giới.
Tài liệu tham khảo
1.Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh-NXB Chính trị quốc gia
2.Giáo trình Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam-NXB chính trị
quốc gia
Comments
Post a Comment