Thực trạng hoạt động của thị trường ngoại hối Việt Nam và các biện pháp quản lý


LỜI NÓI ĐẦU
         Trong điều kiện kinh tế mở, hội nhập và cạnh tranh quốc tế, xu hướng mở rộng và phát triển quan hệ kinh tế quốc tế ngày càng phát triển mạnh mẽ. Với vai trò như chiếc cầu nối giữa kinh tế nội địa với kinh tế thế giới bên ngoài thì việc hình thành và phát triển thị trường ngoại hối một cách toàn diện và hiện đại theo trình độ quốc tế là rất cần thiết. Thông qua các hoạt động nghiệp vụ trên thị trường ngoại hối mà hoạt động xuất nhập khẩu, đầu tư quốc tế, dự trữ quốc tế… trở nên linh hoạt và hiệu quả.
         Việt Nam cũng không phải là một ngoại lệ, khi nền kinh tế chuyển sang cơ chế kinh tế thị trường, các giao dịch kinh tế nước ngoài đã mở rộng sang khắp các châu lục trên thế giới, hoạt động xuất khẩu ngày càng triển vọng, nhu cầu thanh toán bằng ngoại tệ ngày càng lớn.. Trước tình hình này đòi hỏi phải có một thị trường ngoại hối ra đời để đáp ứng nhu cầu ngoại tệ cho nền kinh tế phát triển theo kịp các nước khác trên thế giới. Trong điều kiện đó thị trường ngoại hối Việt Nam [ bản quyền blogger Huế Lê] đã được hình thành và từng bước phát triển. Bên cạnh những thành tựu đạt được thì nhìn chung thị trường ngoại hối Việt Nam vẫn còn non trẻ, sơ khai về trình độ, quy mô hoạt động cũng như những kỹ năng thực hiện nhiệm vụ kinh doanh.Xuất phát từ thực tiễn nêu trên, nhóm chúng tôi chọn đề tài:
“THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI VIỆT NAM VÀ CÁC BIỆN PHÁP QUẢN LÝ”
Để nghiên cứu những vấn đề cơ bản đang tồn tại ở thị trường ngoại hối Việt Nam và đưa ra một số biện pháp quản lý nhằm hoàn thiện thị trường







I.Tổng quan
1.Ngoại hối.
- Khái niệm: ngoại hối là các phương tiện thanh toán được sử dụng trong thanh toán quốc tế.
Ngoại hối ( the foreign exchange)  bao  gồm:
-Ngoại tệ: là đồng tiền nước ngoài ( bao gồm cả đồng tiền chung của các nước khác và quyền rút vốn đặc biệt SDR). Ngoại tệ có thể là tiền kim loại, tiền giấy, tiền trên tài khoản, séc du lịch, tiền điện tử và các phương tiện khác được xem như tiền
-Các giấy tờ có giá ghi bằng ngoại tệ, như séc thương mại, chấp phiếu ngân hàng, hối phiếu đòi nợ, trái phiếu, cổ phiếu và các giấy tờ có giá khác
-Vàng tiêu chuẩn quốc tế: Đây là vàng được sử dụng với vai trò là tiền (phương tiện thanh toán ) trong thanh toán quốc tế. Trong đó, các điều kiện để vàng được chấp nhận trong thanh toán quốc tế bao gồm:
+ vàng phải là vàng thỏi, vàng khi có khối lượng trên 1 kg.
+ vàng có tỷ lệ vàng nguyên chất từ 99,5% trở lên.
+ vàng có giấy chứng nhận của sở giao dịch quốc tế hoạc tổ chức kiểm định quốc tế.
2. Thị trường ngoại hối ( The Foreign Exchange Market)
Thị trường ngoại hối là nơi diễn ra việc mua và bán ngoại tệ, và vốn bằng ngoại tệ.
3. Đặc điểm thị trường ngoại hối
- Forex không nhất thiết phải tập trung tại vị trí địa lý hữu hình nhất định
-Đây là thị trường toàn cầu, hay thị trường không ngủ
-Trung tâm của thị trường ngoại hối là thị trường liên ngân hàng (Interbank) với các thành viên chủ yếu là các NHTM, các nhà môi giới ngoại hối và các NHTW
-Các nhóm thành viên tham gia thị trường duy trì quan hệ với nhau liên tục thông qua điện thoại, mạng vi tính, telex và fax
-Do thị trường có tính toàn cầu, thông tin cân xứng, khối lượng giao dịch cực lớn, công nghệ hoàn hảo, hàng hóa (ngoại tệ ) đồng chất , dẫn đến chi phí giao dịch rất thấp và hoạt động thị trường trở nên hiệu quả
-Đồng tiền được sử dụng nhiều nhất trong giao dịch là USD
-Đây là thị trường nhạy cảm với các sự kiện kinh tế, chính trị, xã hội, tâm lí…nhất là với chính sách tiền tệ của các nước phát triển [ bản quyền blogger Huế Lê]
4.Chức năng của thị trường ngoại hối
·        Phục vụ thương mại quốc tế.
·        Phục vụ luân chuyển vốn quốc tế: giúp luân chuyển các khoản đầu tư, tín dụng quốc tế, các giao dịch tài chính quốc tế khác cũng như giao lưu giữa các quốc gia
·        Nơi hình thành tỷ giá: Thông qua hoạt động của thị trường ngoại hối, mà sức mua đối ngoại của tiền tệ được xác định một cách khách quan theo quy luật cung cầu thị trường
·        TT ngoại hối là nơi để NHTW tiến hành can thiệp lên tỷ giá để tỷ giá biến động theo chiều hướng có lợi cho nền kinh tế
·        Thị trường ngoại hối là nơi kinh doanh và cung cấp các công cụ phòng ngừa rủi ro tỷ giá bằng các hợp động như kỳ hạn, hoán đổi, quyền chọn và tương lai
5. Các chủ thể tham gia thị trường ngoại hối
·        Các đối tượng khách hàng: bao gồm các công ty nội địa và các công ty đa  quốc gia , những nhà đầu tư quốc tế và tất cả những ca nhân có nhu cầu mua bán ngoại tệ với mục đích:
-         Chuyển đổi ngoại tệ
-         Phòng ngừa rủi ro.
·        Các trung gian tài chính trong đó quan trọng nhất là các ngân hàng thương mại. Các NHTM tham gia giao dịch ngoại hối với hai mục đích
-         Cung cấp dịch vụ cho khách hàng.
-         Kinh doanh cho chính mình.
·        Các cơ quan quản lý của nhà nước. trong đó quan trọng nhất là NHTW. Ngân hàng trung ương tham gia vào thị trường ngoại hối với ba mục đích sau:
-         Can thiệp điều chỉnh tỷ giá để duy trì mức tỷ giá ổn định không có biến động quá lớn.
-         Mua bán, chuyển đổi tiền tệ nhằm bảo toàn và gia tăng giá trị dự trữ ngoại hối quốc gia .
-         NHTW tham gia làm đại lý trong việc mua hộ, bán hộ ngoại tệ cho chính phủ.
·        Các nhà môi giới tự do: nhà môi giới ngoại hối tham gia thị trường không vì mục đích kinh doanh cho bản thân họ mà là trung gian giữa các bên giao dịch. Ưu điểm của phương thức giao dịch qua môi giới là các nhà môi giới thu thập hầu hết các thông tin về lệnh đặt mua và lệnh đặt bán ngoại tệ từ các ngân hàng khác nhau, trên cơ sở đó cung cấp tỷ giá chào mua và tỷ giá chào bán cho khách hàng một cách nhanh , rộng khắp với tỷ giá giao tay .
·        Các nhà đầu cơ ngoại tệ.
6.Các nghiệp vụ trên thị trường ngoại hối
·        Nghiệp vụ giao ngay
·        Nghiệp cụ kỳ hạn
·        Nghiệp vụ hoán đổi
·        Nghiệp vụ tương lai
·        Nghiệp vụ quyền chọn
II.Thực trạng hoạt động thị trường ngoại hối Việt Nam
1.Khái quát về lịch sử hình thành và phát triển
   Trước năm 1991, Việt Nam phát triền kinh tế hướng nội, đóng cửa, các mối quan hệ với bên ngoài đều thông qua hệ thống độc quyền của nhà nước về ngoại thương và ngoại hối
Khi nền kinh tế Việt Nam chuyển sang cơ chế kinh tế thị trường, các giao dịch kinh tế nước ngoài đã mở rộng sang khắp các châu lục trên thế giới, nhu cầu thanh toán bằng ngoại tệ ngày càng lớn. Bên cạnh đó, hoạt động xuất khẩu đã có nhiều triển vọng. Trước tình hình này đòi hỏi phải có một thị trường ngoại hối ra đời để đáp ứng nhu cầu ngoại tệ cho nền kinh tế phát triển theo kịp các nước khác trên thế giới. Tuy nhiên, việc hình thành thị trường ngoại hối không thể tiến hành ngay được mà cần có sự chuẩn bị từng bước.
   Năm 1991[ bản quyền blogger Huế Lê] Trung tâm Giao dịch ngoại tệ được thành lập và hoạt động với mục tiêu: thiết lập thị trường ngoại hối chính thức cho giao dịch giữa ngân hàng và các đơn vị kinh tế; đánh giá và đo lường cung cầu ngoại tệ trên thị trường; quyết định tỉ giá chính thức hợp lý giữa USD và VND; chuẩn bị những điều kiện ban đầu cho việc hình thành thị trường ngoại hối hoàn chỉnh trong tương lai; thông qua Trung tâm giao dịch ngoại tệ, NHNN từng bước bổ sung Quỹ dự trữ ngoại tệ tập trung của Nhà nước để can thiệp vào thị trường ngoại hối trong cả nước. Sự ra đời và hoạt động của Trung tâm giao dịch ngoại tệ được coi như là một thị trường ngoại hối chính thức ở Việt Nam. Số lượng thành viên tham gia hai trung tâm giao dịch ngoại tệ đã tăng dần kể từ ngày thành lập. Nếu năm 1991, tại thành phố HCM có 12 thành viên thì năm 1993 có 128 thành viên. Tại Hà Nội, từ 28 thành viên năm 1991 đã tăng lên 117 thành viên vào năm 1993.
Doanh số hoạt động từ năm 1991 đến năm 1993 tăng dần nhưng bắt đầu từ tháng5 /94 trở đi doanh số giao dịch giảm dần ở mức 10 triệu USD mỗi thánh, kể từ khi thành lập thị trường ngoại tệ liên ngân hàng thì doanh số giảm đáng kể.Sở dĩ doanh số ở các trung tâm giao dịch giảm hẳn đi là do các NHTM lớn đã tham gia vào thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, qua đó các ngân hàng thương mại thực hiện giao dịch ngoại tệ trực tiếp với nhau, giảm được chi phí, tăng tốc độ luân chuyển vốn, thanh toán nhanh và tăng được tính thanh khoản của thị trường.
   Năm 1994, khi thị trường ngoại hối đã phát triển đã phát triển đến một giai đoạn nhất định, xét trên phạm vi và cơ cấu tổ chức, hai trung tâm Giao dịch ngoại tệ không còn phù hợp. Số lượng ngân hàng tham gia giao dịch tăng nhanh, phạm vi và cường độ giao dịch càng ngày càng phát triển và mở rộng. Trước tình hình đó, NHNN đã cho phép Thị trường ngoại tệ Liên ngân hàng ra đời thay thế hoạt động hai Trung tâm giao dịch. Ngày 20/9/1994, Thống đốc NHNN ban hành Quyết định số 203/QĐ-NH9 về việc thành lập và quy chế tổ chức hoạt động của Thị trường ngoại tệ Liên ngân hàng nhằm xây dựng một thị trường có tổ chức về giao dịch ngoại tệ giữa các NHTM được phép kinh doanh ngoại tệ, giữa các thành viên với NHNN và tạo cơ sở hình thành thị trường ngoại hối hoàn chỉnh. Ngoài ra, thông qua Thị trường ngoại tệ Liên ngân hàng, NHNN có thể can thiệp một cách hữu hiệu vào thị trường nhằm thực thi chính sách tiền tệ quốc gia.
Thành viên tham gia thị trường ngoại tệ liên ngân hàng bao gồm các ngân hàng thương mại và ngân hàng đầu tư phát triển trong nước, ngân hàng liên doanh với nước ngoài và chi nhánh của ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam. Ngân hàng nhà nước tham gia vào thị trường như các thành viên khác, đồng thời can thiệp nhằm mục tiêu quản lí khi cần thiết.
Điều kiện để ngân hàng thương mại trở thành thành viên của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng là:
·                  Phải được phép kinh doanh ngoại tệ
·                  Có tài khoản ngoại tệ và tiền đồng gửi tại ngân hàng nhà nước
·                  Có hệ thống thông tin nội bộ nối mạng với ngân hàng nhà nước
Trong thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, Ngân hàng nhà nước vừa là người điều hành thị trường vừa là người mua bán cuối cùng với khối lượng lớn để can thiệp vào thị trường khi cần thiết. Thông qua hoạt động của thị trường, Ngân hàng nhà nước tiếp tục đổi mới và hoàn thiện cơ chế xác định tỉ giá theo hướng thị trường. Ngân hàng nhà nước sử dụng quỹ bình ổn hối đoái để can thiệp thị trường một cách có hiệu quả nhằm thực hiện mục tiêu chính sách hối đoái của Ngân hàng nhà nước và ổn định tỉ giá hối đoái.
          Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng hoạt động tất cả các ngày làm việc trong tuần dưới hình thức phi tập trung. Bước đầu chỉ thực hiện các giao dịch giao ngay và giao dịch kì hạn thông thường với kì hạn do các thành việc giao dịch tự thỏa thuận. Tỉ giá giao dịch dựa trên cơ sở tỉ giá chính thức do Ngân hàng nhà nước công bố đầu ngày, theo đó, ngân hàng thương mại được giao dịch với nhau trong một biện độ nhất định quanh tỉ giá chính thức.
Trước năm 1998, trên thị trường các giao dịch chủ yếu là giao dịch giao ngay. Kể từ năm 1998, giao dịch ngoại tệ kỳ hạn và hoán đổi mới chính thức được đưa vào giao dịch.
2. Thực trạng hoạt động thị trường ngoại hối từ khi có Interbank (Thị trường ngoại hối liên ngân hàng
2.1Tỷ giá USD/VND
Ở Việt Nam, đồng USD gần như được mặc định là đồng neo tỷ giá. NHNN VN công bố tỷ giá VNĐ/USD. Căn cứ và tỷ giá quôc tế giữa USD và các đồng ngoại tệ khác, các NHTM sẽ xác lập tỷ giá giữa các ngoại tệ đó với VND


-Giai đoạn phát triển ổn định như giai đoạn 1993-1996 và giai đoạn 2001-2007. Gắn liền với giai đoạn này là một cơ chế tỷ giá neo giữ theo đồng USD một cách cứng nhắc. Đây cũng là giai đoạn mà tỷ giá trên thị trường tự do cũng ổn định và theo sát tỷ giá chính thức
-Giai đoạn khủng hoảng : 1997-2000 với ảnh hưởng mạnh mẽ của cuộc khủng hoảng tài chính châu Á và 2008-2010 vỡi cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu.Gắn liền với những giai đoạn biến động mạnh này là sự chênh lệch lớn giữa tỷ giá chính thức và tỷ giá thị trường tự do. Sức ép của thị trường đã buộc NHNN phải nới rộng biên độ tỷ giá hoặc chính thức phá giá, làm choVND mất giá mạnh mẽ so với thời điểm trước đó
Diễn biến tỷ giá một số năm gần đây
    Năm 2008 được giới phân tích tài chính coi là "năm bất ổn của tỷ giá" với những biến động tỷ giá rất phức tạp với những ảnh hưởng từ các yếu tố vĩ mô, cung cầu ngoại tệ và thậm chí cả tin đồn. Chỉ trong năm 2008, biên độ tỷ giá đã được điều chỉnh 5 lần, một mật độ chưa từng có trong lịch sử.[ bản quyền blogger Huế Lê]


Diễn biến tỷ giá
Nguyên nhân
Giai đoạn đầu (từ 01/01 – 25/03/2008): Tỷ giá liên tục giảm, dưới mức sàn.
Tỷ giá USD/VND trên thị trường liên ngân hàng liên tục sụt giảm (từ mức 16.112 đồng xuống 15.960 đồng. mức thấp nhất là 15.560 đồng/USD). Trên thị trường tự do, USD dao động từ mức 15.700 – 16.000 đồng/USD
+Thời điểm này đang ở giai đoạn gần tết Dương lịch, do đó lượng kiều hối chuyển về nước khá lớn.
+Các nhà đầu tư dự kiến VND sẽ tăng giá so với USD, cộng thêm chênh lệch lãi suất lớn giữa USD và VND nên các nhà đầu tư đẩy mạnh việc bán USD chuyển qua VND. Tập trung vào các đối tượng là nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Trái phiếu Chính phủ Việt Nam (1,4 tỷ USD), các doanh nghiệp xuất khẩu vay USD để phục vụ sản xuất kinh doanh…Các NHTM lúc này cũng đẩy mạnh bán USD.
+ Trong khoảng thời gian này, Chính phủ và NHNN đang đẩy mạnh việc kiềm chế lạm phát, sử dụng biện pháp tiền tệ thắt chặt, tăng lãi suất cơ bản từ 8,25%/năm (tháng 12/2007) lên 8,75%/năm (tháng 2/2008). NHNN không thực hiện mua ngoại tệ USD nhằm hạn chế việc bơm tiền ra lưu thông, tăng biên độ tỷ giá USD/VND từ 0,75%/năm lên 1%/năm trong ngày 10/03/2008.
Giai đoạn 2 (từ 26/03 – 16/07/2008): Tăng với tốc độ chóng mặt tạo cơn sốt USD trên cả thị trường liên ngân hàng lẫn thị trường tự do.
Trong giai đoạn này, tỷ giá tăng dần đều và đột ngột tăng mạnh từ giữa tháng 6, đỉnh điểm lên đến 19.400 đồng/USD vào ngày 18/06, cách hơn 2.600 đồng so với mức trần,còn trên  TTTD cao hơn khoảng 100-150 đồng, sau đó dịu lại khi NHNN nới biên độ từ 1% lên +/-2%(27/6) và kiểm soát chặt các bàn thu đổi
Nguyên nhân USD tăng mạnh trong giai đoạn này chủ yếu do tâm lý bất ổn của doanh nghiệp và người dân khi thấy USD tăng nhanh dẫn đến trạng thái găm ngoại tệ của giưois đầu cơ. Nhu cầu mua ngoại tệ trả các khoản nợ của cả DN xuất và nhập khẩu đến hạn cao; Tăng nhập khẩu vàng do chênh lệch lớn giữa giá vàng trong nước và quốc tế.
Nhà ĐTNN bắt đầu rút vốn khỏi Việt nam bằng việc bán trái phiếu CP khi lo ngại về tình hình kinh tế và do tình hình thanh khoản thấp trên thị trường thế giới đẩy nhu cầu mua USD chuyển vốn về nước lên cao (bán ròng 0,86 tỷ USD).
Cung ngoại tệ thấp do NHNN không cho phép cho vay ngoại tệ đối với doanh nghiệp xuất khẩu (theo quyết định số 09/2008/QĐ, NHNN không cho phép vay để chiết khấu bộ chứng từ xuất khẩu, vay thực hiện dự án sản xuất xuất khẩu) giảm hiện tượng doanh nghiệp xuất khẩu vay ngoại tế bán lại trên thị trường.
Giai đoạn 3 (từ 17/07 15/10/2008): Giảm mạnh và dần đi vào bình ổn.
Tỷ giá giảm mạnh từ 19.400 đồng/USD xuống 16.400 đồng/USD và giao dịch bình ổn quanh mức 16.600 đồng trong giai đoạn từ tháng 8 – tháng 11.
Nhờ có sự can thiệp kịp thời của NHNN, cơn sốt USD đã được chặn đứng. Nhận thấy tình trạng sốt USD đã ở mức báo động, lần đầu tiên trong lịch sử, NHNN đã công khai công bố dự trữ ngoại hối quốc gia 20,7 tỷ USD khi các thông tin trên thị trường cho rằng USD đang trở nên khan hiếm.
Đồng thời lúc này, NHNN đã ban hành một loạt các chính sách nhằm bình ổn thị trường ngoại tệ như kiểm soát chặt các đại lý thu đổi ngoại tệ (cấm mua bán ngoại tệ trên thị trường tự do không đăng ký với các NHTM), cấm mua bán USD thông qua ngoại tệ khác để lách biên độ, cấm nhập khẩu vàng và cho phép xuất khẩu vàng; bán ngoại tệ can thiệp thị trường thông qua các NHTM lớn.
Giai đoạn 4 (từ 16/10 đến hết năm 2008): tỷ giá USD tăng trở lại.
Tỷ giá USDVND tăng đột ngột trở lại từ mức 16.600 lên mức cao nhất là 16.998 sau đó giảm nhẹ. Giao dịch nằm trong biên độ tỷ giá. Tuy nhiên cung hạn chế, cầu ngoại tệ vẫn lớn. Sau khi NHNN tăng biên độ tỷ giá từ 2% lên 3% trong ngày 7/11/2008, tăng tới mức 17.440 đồng/USD.
Trong khoảng thời gian từ tháng 10 - tháng 11, nhà đầu tư nước ngoài đẩy mạnh việc bán ra chứng khoán trong đó bán trái phiếu (700 triệu USD), cổ phiếu (100 triệu USD). Nhu cầu mua ngoại tệ của khối nhà đầu tư nước ngoài tăng cao khi muốn đảm bảo thanh khoản của tổ chức tại chính quốc. Nhu cầu mua USD của các ngân hàng nước ngoài cũng tăng mạnh (khoảng 40 triệu USD/ngày).
Cầu USD trên thị trường tự do tăng cao bởi khi NHNN không cho phép nhập vàng thì hiện tượng nhập lậu vàng gia tăng, làm tăng cầu USD để nhập khẩu (do USD là đồng tiền thanh toán chính).
NHNN bán hơn 1 tỷ USD cho các NHTM đáp ứng nhu cầu nhập khẩu một số mặt hàng thiết yếu. 



Năm 2009:
     Tỷ giá USD/VNĐ lại tiếp tục tăng đà tăng trong 4 tháng đầu năm, đặc biệt sau khi NHNN thực hiện nới rộng biên độ tỷ giá lên +/-5% khiến cho tỷ giá ngoại tệ liên NH đã có đợt tăng đột biến và giao dịch trên TTTD tiến sát mức 18000đồng/USD. Trong bối cảnh nguồn ngoại tệ ròng vào VN là dương trong 4 tháng đầu năm thì dường như yếu tố chính khiến cho tỷ giá USD/VNĐ tăng mạnh lại là do sự găm giữ ngoại tệ.

Diễn biến tỷ giá
Nguyên nhân
Giai đoạn 1 (từ 01/01  –24/11/2009): tỷ giá liên tục tăng.
Tỷ giá biến động mạnh trên cả thị trường liên ngân hàng và thị trường tự do.Cụ thể:
-Từ tháng 1 đến tháng 3: tỷ giá LNH dao động trong khoảng 17.450  - 17.700 đồng/USD, cách giá trần khoảng từ 0 – 200đồng,còn TTTD cao hơn tỷ giá LNH khoảng 100 đồng
-Từ tháng 4 đến tháng 9 :tỷ giá trên 2  thị trường dao động trong khoảng 18.180 - 18.500 đồng/USD.
-Từ tháng 10 đến 25/11/2009: Biến động tỷ giá rất dữ dội từ 18.545 – 19.300đồng/USD, có lúc đạt đỉnh 20.000 đồng/USD trên TTTD và 19.750 đồng/USD trên thị trường liên ngân hàng.
+ Hiện tượng găm giữ ngoại tệ chờ giá lên của người dân
+Có hiện tượng DN vay USD tuy chưa đến kỳ trả nợ nhưng đã mua sẵn USD để giữ vì sợ tỷ giá sẽ tăng. Chính lượng đặt mua nhiều của DN khiến cầu ngoại tệ tăng. Ngoài ra, do tâm lý bất ổn của cả DN và người dân khi tỷ giá tăng nhanh dẫn tới hiện tượng găm giữ ngoại tệ.
+Do tác động của chính sách hỗ trợ lãi suất cho các DN bằng tiền đồng, do lãi suất vay tiền đồng thấp, phạm vi và thời gian vay được mở rộng theo chủ trương của chính phủ nên một số DN có ngoại tệ có xu hướng không muốn bán ngoại tệ và chỉ muốn vay tiền đồng. Đây là 1 tác động thiếu tích cực không mong muốn khi triển khai gói kích cầu.
+Ngoài ra, còn 1 số nguyên nhân khác như: thâm hụt cán cân thương mại lớn các tháng cuối năm 2008, yếu tố tin đồn ,…
Giai đoạn 2 (từ 25/11 đến hết năm 2009)
Tỷ giá bắt đầu giảm về quanh mức 18.500 đồng /USD
Nguyên nhân là do NHNN thực hiện các biện pháp bình ổn tỷ giá, đặc biệt có sự chung góp sức của các NHTM đã làm giảm tỷ giá sau 1 giai đoạn đầy biến động.

Năm 2010
-Giá USD đã tăng khá mạnh trong 2 năm 2008 và 2009, sang đến tháng 1.2010 lại giảm nhẹ và tiếp tục dao động quanh mức 18.479 đồng/USD cho đến giữa tháng 2/2010
.Nguyên nhân:
       +Thứ nhất: Nguồn cung USD có thể sẽ tăng khá từ các nguồn: Từ nước ngoài, lượng USD vào nước ta sẽ tăng khá so với năm trước, kể cả nguồn vốn đầu tư trực tiếp (thực hiện tháng 1 tăng 33,3%); Vốn hỗ trợ phát triển chính thức do năm trước cam kết, ký kết đạt mức kỷ lục; Vốn đầu tư gián tiếp khi các nhà đầu tư nước ngoài liên tục mua ròng trên thị trường chứng khoán; Nguồn kiều hối từ Việt kiều và từ lao động làm việc ở nước ngoài gia tăng; Nguồn thu từ khách quốc tế đến Việt Nam gia tăng trở lại (tháng 1 tăng 20,4%); Kim ngạch xuất khẩu chuyển từ tăng trưởng âm sang tăng trưởng dương…
     + Thứ hai, từ cuối năm 2009 đến nay, Ngân hàng Nhà nước đã có những giải pháp “vượt trước ngăn chặn” với nhiều động thái để giảm sức ép tăng tỷ giá, như:
·         Tăng tỷ giá liên ngân hàng đồng thời với việc giảm biên độ giao dịch từ ±5% xuống còn ±3
·          Yêu cầu các tập đoàn và tổng công ty lớn của nhà nước bán lại ngoại tệ cho ngân hàng
·          Bán ngoại tệ cho các ngân hàng thương mại có trạng thái dưới 5%; Hạ tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi USD: Việc giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ từ 7% xuống 4% đối với kỳ hạn dưới 12 tháng, từ 3% xuống 2% đối với kỳ hạn trên 12 tháng đã làm tăng nguồn vốn khoảng 500 triệu USD (9.000 tỷ đồng) cho các ngân hàng thương mại để cho vay trên thị trường.
-Nhìn chung, diễn biến tỷ giá trong năm 2010 là khá phức tạp. Mặc dù NHNN đã điều chỉnh nâng tỷ giá liên ngân hàng hai lần vào tháng 2 và tháng 10, khoảng cách giữa tỷ giá chính thức và tỷ giá trên thị trường tự do luôn ở mức cao. Tỷ giá chính thức có thời điểm thấp hơn tỷ giá trên thị trường tự do tới 10%. Đến cuối tháng 11 năm 2010, tỷ giá trên thị trường tự do đã đạt mức 21.500 đồng/USD.
     Những bất ổn về tỷ giá có nguyên nhân sâu xa từ những bất ổn về kinh tế vĩ mô đó là bội chi cao, nhập siêu lớn và hiệu quả đầu tư công thấp… làm cho cầu ngoại tệ luôn lớn hơn cung ngoại tệ. Bên cạnh đó hiện tượng đầu cơ và tâm lý cũng gây áp lực mạnh mẽ lên tỷ giá. Những bất ổn trên thị trường ngoại hối và tỷ giá hối đoái đã tiếp tục gây ra những khó khăn cho hoạt động xuất nhập khẩu. Hơn nữa, đồng tiền mất giá còn ảnh hưởng đến lạm phát trong nước do giá hàng nhập khẩu tăng mạnh. Trong bối cảnh lạm phát có xu hướng gia tăng và tính không ổn định trên thị trường tiền tệ, đòi hỏi cần phải có sự lựa chọn linh hoạt cơ chế điều hành tỷ giá để đạt được mục tiêu kiềm chế lạm phát và ổn định thị trường tiền tệ
Năm 2011
    Tình hình chung: Tỷ  giá USD/VND năm 2011 đã có nhiều biến động trong những tháng đầu năm và sau đó được duy trì khá  ổn định trong suốt năm với mức điều chỉnh tăng giảm trong biên độ cho phép +/-1%.
    Cụ thể: Từ những tháng cuối năm 2010 tỷ giá USD/VND trên thị trường tự do tăng mạnh và vượt xa khỏi tỷ giá chính thức khoảng 10% và dao động xung quanh  mức  21.000  –  21.500  VND/USD.  Trước  sức  ép  giảm  giá  của  VND,  ngay  sau  Tết  âm  lịch,  vào  ngày 11.2.2011, NHNN đã ra thông báo tăng tỷ  giá USD/VND bình quân liên ngân hàng lên mức 20.693 VND/USD và thu hẹp biên độ  giao dịch từ  +-  3% xuống +-  1%.Sau khi điều chỉnh cho đến gần hết quý II, tỷ giá liên ngân hàng luôn được duy trì ở mức cao và có lúc lên tới 20.733 VND/USD, còn trong quý III và giữa quý IV, tỷ giá niêm yết chủ yếu ở dưới mức 20.300 VNĐ/USD Tuy nhiên từ  giữa tháng 10 đến kết thúc năm 2011, tỷ  giá đã dần tăng lên trên mức 20.700 VND/USD và chốt năm  ở mức 20.828 VND/USD.
    Tính chung lại, đồng nội tệ  vào cuối năm đã giảm giá 0,65% kể từ  lần điều chỉnh tỷ  giá tháng 2/2011 và giảm 10% so với đồng USD vào thời điểm đầu năm. Hơn nữa, khoảng cách giữa tỷ  giá trong hệ  thống ngân hàng và trên thị  trường tự  do không còn chênh  lệch nhiều, đặc biệt là với động thái quản lý mạnh tay của NHNN đối với thị trường ngoại hối tự do lẫn chính thức để điều hướng dòng ngoại tệ trong nước. Có thể thấy, diễn biến tỷ giá trong năm đã chịu nhiều áp lực từ tình hình tăng trưởng tín dụng ngoại tệ  đột biến trong các tháng đầu năm, từ  diễn biến giá vàng và từ  chủ  trương hạ  mức lãi suất đồng nội tệ  của Chính phủ  trong bối cảnh lạm phát vẫn ở mức cao. Tuy nhiên, việc duy trì được tỷ  giá tăng ở  mức thấp dưới 1% trong nhiều tháng qua được nhìn nhận mang nhiều ý nghĩa tích cực, trấn an dân chúng về khả năng ổn định tỷ giá của Ngân hàng Nhà nước, trong bối cảnh những sức ép của việc giảm lãi suất tiền đồng và diễn biến của giá vàng và giá USD trên thị  trường tự  do vẫn còn cao. Việc duy trì mức tỷ  giá trong năm 2011 đã được hỗ  trợ  bởi tình hình cán cân thanh toán tổng thể  của đất nước luôn trong trạng thái thặng dư. Cụ  thể, cán cân thanh toán tổng thể  năm 2011 ước đạt khoảng 2,5 –  4,5 tỷ  USD do lượng kiều hối đổ về Việt Nam ước đạt khoảng 9 tỷ  USD (cao hơn  khoảng 1 tỷ  USD so với năm 2010), dự  trữ  ngoại hối cả  năm ước đạt 15 tỷ  USD (cao hơn mức 12 tỷUSD của năm 2011) trong khi lượng vốn FDI giải ngân vẫn không đổi so với năm 2010 và nhập siêu giảm tới 2,875 tỷ  USD so với năm 2010. Theo đó, nguồn ngoại tệ  của hệ  thống ngân hàng được giữ  ổn định, không có dấu hiệu căng thẳng thanh khoản. Tuy nhiên, áp lực giảm giá đồng nội tệ  vẫn còn hiện hữu trong năm 2012 khi mà thâm hụt cán cân thương mại vẫn tồn tại và khi mức lạm phát năm 2012 vẫn được dự đoán ở trên mức 2 con số.
Năm 2012:
      Ghi nhận thành công lớn nhất của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) trong năm 2012 vừa qua là duy trì tỷ giá USD/VND ổn định ở mức 20,828 VND/USD, giữ nguyên so với mục tiêu điều hành trong năm 2012 (tỷ giá năm 2012 biến động không quá 2-3%). Các quyết sách rõ ràng và minh bạch của NHNN trong công tác điều hành chính sách tỷ giá năm 2012. Đối với ngoại tệ, lãi suất huy động và cho vay bằng ngoại tệ tương đối ổn định, lãi suất huy động phổ biến ở mức 2%/năm đối với tiền gửi của dân cư và 0.5 -1%/năm đối với tiền gửi của tổ chức kinh tế, lãi suất cho vay phổ biến ở mức từ 5.3-7.5%/năm. Tỷ giá NHTM chỉ thay đổi khoảng 0.75%. Tỷ giá giao dịch của Ngân hàng Thương mại (NHTM) sau một thời gian được duy trì ở mức kịch trần biên độ đã được các ngân hàng điều chỉnh giảm dừng ở mức 20,860 (mua vào) – 20,920 (bán ra) vào thời điểm cuối tháng 6/2012 và tiếp tục điều chỉnh giảm trong 6 tháng cuối năm, chốt phiên giao dịch cuối năm giá mua vào chỉ còn 20,820 và giá bán ra là 20,860. Diễn biến tỷ giá trên thị trường chợ đen bám sát diễn biến tỷ giá giao dịch của NHTM.
2.2 Doanh số giao dịch
- Khi mới đi vào thành lập, doanh số giao dịch nhìn chung còn thấp, nguyên nhân do ở thời điểm này hoạt động XNK của Việt Nam còn chưa phát triển nên nhu cầu mua bán ngoại tệ chưa nhiều.
- Giai đoạn cuối năm 1996 sang năm 1997, hoạt động XNK tăng, đầu tư vào Việt Nam cũng tăng và việc ngân hàng nhà nước nới rộng biên độ dao động tỷ giá từ 1,1% sang 5% đã kích thích thị trường ngoại hối phát triển sôi động hơn.
- Những năm 1997 và 1998 do tác động của khủng hoảng tài chính tiền tệ mà VNĐ mất giá mạnh làm tình trạng đầu cơ gia tăng vì thế mà hoạt động của thị trường ngoại tệ không tăng nhiều.
-  Tuy nhiên , từ năm 1999 kinh tế đã bắt đầu hồi phục và các chính sách kích thích tăng trưởng xuất khẩu , thu hút đầu tư nước ngoài của chính phủ đã góp phần làm tăng cung ngoại tệ từ đó mà doanh số giao dịch cũng tăng nhanh.
- Năm 2007, thị trường ngoại tệ liên ngân hàng tiếp tục phát triển mạnh về quy mô thị trường và doanh số giao dịch thị trường tăng cao. Doanh số giao dịch giữa các ngân hàng tăng khoảng 113% so với năm 2006, trong đó doanh số giao dịch giao ngay tăng 125%, doanh số giao dịch kỳ hạn và giao dịch hoán đổi tăng 30%, các NHTM đã sử dụng nhiều các nghiệp vụ giao dịch để phòng ngừa rủi ro trong kinh doanh ngoại hối.
-Nhìn chung từ năm 1995 đến năm 2008, doanh số giao dịch trên thị trường ngoại hối ước tính tăng gấp 4,34 lần,tốc độ tăng trưởng bình quân qua các năm là 20,14%/năm, tuy nhiên đối với một nước có xuất phát điểm thấp và đang trong quá trình mở cửa và hội nhập thì tốc độ tăng như trên vẫn thấp so với mức trung bình khoảng 41,4% của các nước có cùng xuất phát điểm trên thế giới.
   Trong bối cảnh cung cầu ngoại tệ trên thị trường diễn biến phức tạp, hoạt động thị trường ngoại tệ liên ngân hàng năm 2008 tiếp tục sôi động với quy mô và doanh số giao dịch tăng cao. Doanh số giao dịch giữa các ngân hàng tăng khoảng 25% so với năm 2007. Trong đó, doanh số giao dịch giao  ngay tăng 26%, các giao dịch kỳ hạn, hoán đổi tăng 13%. Các ngân hàng đã tiếp cận và sử dụng nhiều hơn các nghiệp vụ giao dịch để phòng ngừa rủi ro trong kinh doanh ngoại hối.
- Trong những năm từ 2008  đến 2012 biến động của doanh số kinh doanh trên thị trường ngoại hối phụ thuộc vào diễn biến tỷ giá USD/VNĐ trên thị trường.
 - Bên cạnh đó, trong nhiều năm doanh số mua vào luôn thấp hơn doanh số bán ra, ( duy nhất  năm 2012, cán cân thương mại của Việt Nam đã được cải thiện theo hướng giảm nhanh tình trạng nhập siêu) điều này nói lên rằng thị trường ngoại hối Việt Nam phát triển theo hướng 1 chiều và luôn chịu áp lực cầu lớn hơn cung 
2.3 Các nghiệp vụ giao dịch trên thị trường
   2.3.1 Sơ lược
      Trước năm 1998, trên thị trường các giao dịch chủ yếu là giao dịch giao ngay. Kể từ năm 1998, giao dịch ngoại tệ kỳ hạn và hoán đổi mới chính thức được đưa vào hoạt động
    Giao dịch quyền chọn được đưa vào áp dụng thí điểm vào cuối tháng 2/2003, các loại giao dịch này chủ yếu được giao dịch tại các hội sở và chi nhánh lớn, chưa phát triển trên diện rộng
  2.3.2 Nghiệp vụ giao ngay
    Hiện nay, nghiệp vụ giao dịch ngoại tệ giao ngay là phổ biến nhất trên thị trường ngoại hối, thể hiện ở bảng sau:
Năm
Tỷ trọng giao dịch ngoại tệ giao ngay
Tỷ trọng giao dịch phái sinh ngoại tệ
2007
92,9
7,1
2008
92,6
7,4
2009
91,8
8,2
2010
92,5
7,5
2011
90,5
9,5
 2.3.3 Nghiệp vụ kỳ hạn
  Tuy việc phát triển các hợp động kỳ hạn tạo điều kiện thúc đẩy thị trường trở nên sôi động hơn bởi nó là biên pháp cho các nhà đầu tư phòng ngừa rủi ro, hỗ trợ phát triển ngoại thương, nhưng giao dịch kỳ hạn chỉ chiếm khoảng 5-7 % khối lượng giao dịch của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, do một số khó khăn sau:
+ Ở Việt Nam do thị trường hối đoái kỳ hạn chưa phát triển mạnh nên thời hạn giao dịch theo bội số của 30 ngày chưa được áp dụng phổ biến thay vào đó thời hạn giao dịch thường là do thoả thuận giữa hai bên, tuy các ngân hàng đưa ra kỳ hạn từ 3 đến 365 ngày nhưng nói chung không quá 180 ngày. Hầu hết ở các ngân hàng thương mại có giao dịch hối đoái kỳ hạn như Vietcombank, Eximbank, ACB, Techcombank, … thời hạn giao dịch hợp đồng kỳ hạn đều do ngân hàng thoả thuận tùy theo nhu cầu của khách hàng.Điều này là trở ngại  cho thị trường  kỳ hạn trở nên kém linh hoạt và kém hấp dẫn.
+ Mặt khác, do cơ chế điều hành tỷ giá của Ngân hàng Nhà nước trong suốt thời gian qua khá ổn định theo hướng VND giảm giá từ từ so với ngoại tệ để khuyến khích xuất khẩu nhưng vẫn đảm bảo ổn định đối với hoạt động nhập khẩu. Chính lý do này khiến các nhà xuất khẩu không cảm thấy lo ngại ngoại tệ xuống giá khi ký kết hợp đồng xuất khẩu nên không có nhu cầu bán ngoại tệ kỳ hạn. Về phía nhà nhập khẩu, tuy ngoại tệ có lên giá so với VND khiến nhà nhập khẩu lo ngại, nhưng sự lên giá của ngoại tệ vẫn được Ngân hàng Nhà nước giữ ở mức có thể kiểm soát được nên nhà nhập khẩu vẫn chưa thực sự cần giao dịch kỳ hạn để phòng ngừa rủi ro tỷ giá. Hiện nay biên độ dao động tỷ giá là 1%
+ Hạn chế đối tượng tham gia hợp đồng kỳ hạn là các cá nhân và tổ chức không tham gia hoạt động XNK.
2.3.4 Nghiệp vụ hoán đổi
   Ngay cả một số chi nhánh NHTM nước ngoài, có vốn, kinh nghiệm và khả năng cạnh tranh trong việc cung cấp dịch vụ và sản phẩm hối đoái thì giao dịch hoán đổi cũng chiếm một tỷ lệ rất nhỏ, khoảng 5% tương đương với 6-10 triệu USD/tháng so với tổng số giao dịch ngoại hối 130-180 triệu USD/tháng. Nếu cũng tỷ lệ này tính cho giao dịch ngoại hối với khách hàng của Vietcombank, là NHTM nhà nước đi đầu trong lĩnh vực thanh toán quốc tế và kinh doanh ngoại tệ, thì tống giá trị các giao dịch hoán đổi cũng chỉ đạt chừng 10-15 triệu USD /tháng. Incombank khoảng 5-8 triệu USD/tháng. Nguyên nhân của tình trạng trên là:
-Thủ tục để tiến hành còn phức tạp, làm cho doanh nghiệp cảm thấy e ngại và không hứng thú
- Do sự hiểu biết về giao dịch hoán đổi còn sơ sài và hạn chế
-Việc qui định mức trần trong việc xác định tỉ giá kỳ hạn hoán đổi khá cứng nhắc, khiến cho các ngân hang thương mại khó điều chỉnh tỷ giá phù hợp để khách hàng chấp nhận và thu được lợi nhuận cao
-Dự trữ ngoại hối còn quá thấp để NHNN có thể có những can thiệp rõ nét
- Qui định của NHNN về, trường hợp áp dụng giao dịch hoán đổi đối với các chủ thể là các doanh nghiệp kinh doanh XNK còn thiếu tính hợp lí. NHNN đến nay vẫn chưa cho phép các DN áp dụng giao dịch hoán đổi vào mục đích xử lý trạng thái luồng tiền , đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn, mặc dù đây là một trong những ứng dụng khá cơ bản và có ý nghĩa thực tiễn của loại hình này
-Chi phí tiến hành giao dịch hoán đổi ngoại hối còn quá cao
2.3.5 Nghiệp vụ quyền chọn
   NHNN đã cho phép thực hiện thí điểm đối với Eximbank,, Vietcombank; ACB, BIDV, Techcombank, NHTMCP Quân đội, nhưng doanh số về hoạt động này vẫn không đáng kể so với doanh số các hoạt động truyền thống. Tính trong năm 2006-2007 Vietcombank chỉ đạt khoảng 2,4 triệu USD (chiếm chưa đến 1% tổng doanh số giao dịch ngoại tệ), Eximbank đạt 5,3 triệu USD (chiếm khoảng 3% trong tổng số giao dịch ngoại tệ).
Tỷ lệ doanh nghiệp có biết đến và sử dụng hợp đồng quyền chọn ngoại tệ thường xuyên không cao
Bảng: Kết quả khảo sát về việc sử dụng công cụ quyền chọn ngoại tệ
Doanh nghiệp chưa biết
21%
Doanh nghiệp ít sử dụng
58%
Doanh nghiệp thường xuyên sử dụng
21%
Tổng cộng quyền chọn ngoại tệ
100%
Nguyên nhân:
-Nguyên nhân chủ yếu là do mức độ phát triển của thị trường tiền tệ, ngoại hối, chứng khoán…của nước ta còn thấp, Việt Nam chưa phải chịu ảnh hướng lớn từ những cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ, nên việc sử dụng các công cụ phái sinh chưa trở thành nhu cầu bức xúc.Thêm vào đó, do mức độ hiệu quả của thị trường ngoại hối còn yếu nên các giao dịch quyền chọn nói chung không minh bạch và gây thiệt hại cho nhà đầu tư, doanh nghiệp nếu thiếu thông tin. Đây cũng là một trong những lý do chính khiến các nhà đầu tư còn dè dặt áp dụng đối với công cụ quyền chọn ngoại tệ
-Biên độ dao động tỷ giá nhỏ làm rủi ro đối với tỉ giá giảm đi đáng kể, hạn chế phần nào tâm lý phòng ngừa rủi ro của các nhà đầu tư, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu
- Trên thị trường ngoại hối, đối với quyền chọn ngoại tệ, hiện nay hầu hết các ngân hàng ở Việt Nam do một số hạn chế, vẫn chưa thể tự mình đứng ra phát hành hay cung cấp các quyền chọn ngoại tệ trực tiếp cho khách hàng, mà chỉ đóng vai trò như một trung gian môi giới quyền chọn giữa các ngân hàng lớn khác và khách hang, điều này làm cho phí quyền chọn thường rất cao     
- Do sự thiếu hiểu biết về quyền chọn của các nhà đầu tư
-  Do tư duy và cách làm ăn truyền thống, các doanh nghiệp sợ rằng nếu đưa ra quyết định này, nhưng chẳng may có một điều kiện khách quan nào đó làm cho tỉ giá thị trường giảm xuống trái với xu hướng ban đầu, gây thiệt hại một khoản phí quyền chọn ban đầu, không những uy tín, mà địa vị của người ra quyết định đó cũng bị lung lay. Còn nếu mọi dự báo đúng như thực tế thì bản thân người quyết định đó cũng không được lợi lộc gì.
III.Biện  pháp quản lý
1.Hoàn thiện cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái.
    Trên nguyên tắc khi chúng ta lựa chọn mô hình kinh tế thị trường thì việc vận hành nền kinh tế về căn bản phải dựa trên các mối quan hệ cung cầu nhằm quyết định xu hướng biến động của các loại thị trường. Tuy nhiên, trong những hoàn cảnh cụ thể thì Nhà nước có thể và rất cần phải can thiệp vào thị trường nhằm “uốn nắn” những biểu hiện lệch lạc của thị trường. Đối với thị trường hối đoái, do đây là thị trường trao đổi các “hàng hóa đặc biệt” nên càng cần thiết phải có sự điều chỉnh của Chính phủ, thậm chí phải rất mạnh tay nhằm thiết lập lại các xu hướng biến động của thị trường và răn đe sự đầu cơ. Trong bối cảnh lạm phát gia tăng mạnh, thâm hụt cán cân thương mại lớn và dòng vốn đầu tư nước ngoài vào nhiều, việc lựa chọn một cơ chế điều hành tỷ giá phù hợp với tình hình và chính sách tiền tệ hiện tại có ý nghĩa quan trọng trong việc bình ổn kinh tế vĩ mô.

     Có nhiều quan điểm khác nhau về việc áp dụng cơ chế tỷ giá hối đoái hiện nay, có ý kiến cho rằng trong bối cảnh lạm phát cao, dòng vốn vào nhiều nên để VND lên giá theo cung cầu thị trường thì mới kiểm soát được lạm phát; có ý kiến ngược lại là phải can thiệp để phá giá VND để giảm thâm hụt cán cân thương mại mà hiện nay đang thâm hụt ở mức báo động.
    Từ thực trạng nêu trên, một số biện pháp nhằm hoàn thiện cơ chế tỷ giá hối đoái:
-Lựa chọn chế độ tỷ giá: hướng đến tỷ giá thả nổi có điều tiết của nhà nước
-Chính sách tỷ giá hối đoái Việt Nam nên điều chỉnh theo hướng giảm nhẹ giá đồng Việt Nam nhằm cải thiện khả năng cạnh tranh quốc tế của hàng Việt Nam và giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô
-Thực hiện chính sách đa ngoại tệ
2.Hoàn thiện và phát triển thị trường liên ngân hàng.
   Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng là nhân tố tỷ giá đóng vai trò quyết định trong việc phát triển thị trường ngoại hối hoạt động hiệu quả. Tỷ giá là giá cả ngoại tệ được hình thành theo quy luật cung cầu trên thị trường ngoại hối. Để có 1 thị trường  liên ngân hàng hoạt động hiệu quả ở VN cần phải thực hiện 1 số biện pháp sau:
+ Thực hiện vai trò của NHTW là người mua bán cuối cùng trên thị trường ngoại hối: NHTW sẽ  thực hiện chức năng điều tiết của mình thông qua việc mua bán ngoại tệ cuối cùng trên thị trường ngoại hối.
+ NHTW tham gia và thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ kỳ hạn, hoán đổi, đúng như quy định nhằm tạo điều kiện cho các NHTM tham gia tích cực hơn vào thị trường ngoại hối
+ Việc can thiệp của NHNN cũng cần phải diễn ra kịp thời với quy mô thích hợp, có như vậy thị trường mới hoạt động thông suốt, nếu không sẽ làm phát sinh tâm lý rụt rè ngóng đợi , khiến cho thị trường rơi vào tình trạng trầm lắng
+ Tiến hành thiết lập thị trường ngoại tệ liên ngân hàng theo mô hình tổ chức kép, bao gồm thị trường ngoại tệ liên ngân hàng trực tiếp giữa các ngân hàng và thị trường gián tiếp qua môi giới
+ Hiện nay có 60 tổ chức được công nhận là thành viên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng nhưng số thành viên tham gia tích cực còn hạn chế nên thị trường hoạt động trầm lắng. hơn nữa các giao dịch chủ yếu là giao dịch 1 chiều nghĩa là 1 số ngân hàng chuyên đi bán, số khác thì chuyên đi mua. Điều này làm mất đi tính đặc thù của thị trường.Như vậy, bên cạnh mở rộng về số lượng thành viên thì cần tạo ra môi trường và điều kiện để các thành viên tích cực tham gia vào thị trường này
+ Hoàn thiện quy chế giao dịch, hiện đại hóa khâu thanh toán, trang bị CNTT tiên tiến, nâng cao trình độ và kỹ năng kinh doanh cho cán bộ quản lý ngoại hối
3.Nâng cao vai trò của ngân hàng nhà nước trên thị trường.
Do thị trường ngoại hối của Việt Nam còn sơ khai, độ thanh khoản thấp, tỷ giá kém linh hoạt và chưa thực sự trở thành công cụ điều tiết cung cầu ngoại tệ nên sự can thiệp của NHNN trên thị trường ngoại hối đóng vai trò quan trọng trong việc điều tiết cung cầu ngoại tệ, nhằm bôi trơn và giúp cho thị trường ngoại hối hoạt động được thông suốt.
Do dự trữ ngoại hối của VN mỏng, không ổn định lại qua nhiều tầng quản lý nên NHNN chưa làm tốt vai trò là người mua bán cuối cùng trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng nên tình trạng căng thẳng về ngoại tệ thường xảy ra.
Cơ chế tỷ giá cứng nhắc cùng với sự can thiệp của NHNN trên thị trường còn nhiều hạn chế nên chưa khuyến khích đc các NHTM đẩy nhanh tự do luân chuyển ngoại tệ, tạo tâm lý găm giữ ngoại tệ đối với các NHTM cũng như với các DN xuất khẩu
Để NHNN thực hiện tốt vai trò trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, cần thực hiện 1 số giải pháp sau
-         Hướng tới 1 thi trường tỷ giá cân bằng, nhằm biến tỷ giá thành công cụ hữu hiệu trong việc điều tiết cung cầu trên TTNH
-         Tăng cường dự trữ ngoại tệ vào NHNN, đảm bảo mức dự trữ ngoại tệ cần thiết tối thiểu nhằm tạo đủ nguồn để NHNN can thiệp kịp thời, đủ liều lượng thông qua các biện pháp thị trường, giúp hoạt động của thị trường ngoại hối đc ổn định & thông suốt
-         Tập trung dự trữ ngoại hối nhà nước về 1 đầu mối là NHNN
-         Có sự phối hợp nhịp nhàng giữa hoạt động can thiệp của NHNN với hoạt động của NHNN trên thị trường mở: khi NHNN can thiệp trên TTNH bằng cách bán ngoại tệ ra nghĩa là NHNN hút 1 lượng nội tệ từ lưu thông, để trành hiện tượng thiểu phát hoặc NHNN phải sử dụng 1 nghiệp vụ trên thị trường mở là mua chứng khoán để bơm thêm tiền vào lưu thông. Ngược lại, khi NHNN mua ngoại tệ tức là NHNN đã bơm thêm nội tệ vào lưu thông. Để tránh hiện tượng lạm phát NHNN phải sử dụng 1 nghiệp vụ trên thị trường mở là bán chứng khoán để hút bớt tiền từ lưu thông
Do TTTT của VN còn kém phát triển, các công cụ trên TTTC còn nghèo nàn nên hoạt động của thị trường mở còn trầm lắng. vì vậy để can thiệp trên TTNH hiệu quả cần có giải pháp hoàn thiện thị trường tiền tệ để NHNN có thể can thiệp khi cần bơm thêm hoặc hút bớt tiền ra khỏi lưu thông, giảm áp lực lạm phát khi cung cầu ngoại tệ căng thẳng.
4. Hoàn thiện phương pháp công bố tỷ giá
   Việt Nam hiện nay chỉ có gắn định với USD mà chưa có sự gắn định với các đồng ngoại tệ khác.Điều đó được thể hiện qua hai phương diện:
+Xét về phương diện tập quán thị trường: khối lượng giao dịch bằng đồng USD chiếm tỷ trọng cao nhất,lên đến 70%,nhất là trong các giao dịch thương mại nó lên đến 90%.
+Xét về phương pháp xác định và công bố tỷ giá: Hiện nay tỷ giá VND/USD được xác định và công bố dường như độc lập so với các ngoại tệ khác.Thực tế cho thấy đồng USD khá ổn định thể hiện ở mức độ lạm phát thấp.Còn đồng Viêt Nam thì bấp bênh,trôi nổi,giá trị đồng tiền không ổn định,tiềm ẩn nguy cơ lạm phát cao. Do đó việc gắn định VND với USD là điều bất hợp lý.Vì nó làm sói mòn sức cạnh tranh thương mại quốc tế của Việt Nam.Hơn nữa khi USD tăng giá so với các ngoại tệ khác thì  VND cũng sẽ tăng theo.Điều này làm kích thích nhập khẩu và hạn chế xuất khẩu.
  Từ thực trạng trên, ta có thể thấy nó tiềm ẩn rủi ro cao khi mà USD đột ngột tăng giá so với các ngoại tệ khác.Để giảm bớt việc ấn định USD,ta có các giải pháp sau:
+Đa dạng hóa các ngoại tệ trong giao dịch quốc tế , đưa một sồ ngoại tệ mạnh,chiếm tỷ trọng nhất định trong thanh toán quốc tế của Việt Nam vào cơ cấu các đối tượng mua bán trên thị trường ngoại hối liên ngân hàng
  +. Hạn chế các biện pháp can thiệp trực tiếp lên tỷ giá và ngoại hối; khơi thông và tiến tới đưa thị trường ngoại hối quốc gia hội nhập với thị trường ngoại hối quốc tế
+ Trong phương pháp xác định và công bố tỷ giá, NHNN nên xác định cơ cấu “ rổ” ngoại tệ để xác định tỷ giá VNĐ nhằm giảm bớt sự lệ thuộc vào USD, đồng thời tỷ giá VNĐ với các ngoại tệ khác sẽ được khách quan hơn. Trong từng thời kỳ, các đồng tiền trong “rổ” cũng có sự biến động cũng có đồng tiền lên và có đồng tiền giảm giá trên thị trường ngoại hối quốc tế nhưng giá trị VNĐ với cả “rổ” không thay đổi do đó tránh được sự lệ thuộc vào một ngoại tệ nào đó.
5.Hoàn thiện và mở rộng các nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ.
·        Về nghiệp vụ kỳ hạn và hoán đổi
-Cần cho phép ngân hàng thực hiện các hợp đồng với các kỳ hạn linh hoạt
- Từng bước nới rộng tỉ lệ % gia tăng cho phép để các ngân hàng có thể yết giá cạnh tranh tạo cho thị trường có độ thanh khoản cao hơn và sôi động hơn. Tuy nhiên về lâu dài thì biện pháp qui định tỉ lệ % gia tăng cho phép cũng cần được dỡ bỏ
·        Về nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ
       Để phù hợp với trình đọn thị trường là nhu cầu thực tiễn, trước mắt ngân hàng   nhà nước có thể cho phép và hướng dẫn các ngân hàng thương mại tiến hành nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ. Vì quyền chọn rất phức tạp về nội dung và nghiệp vụ, do đó càn triển khai từng bước từ đơn giản đến phức tạp cụ thể là :
§  Trước tiên , chỉ thực hiện quyền chọn VND và USD sau khi thị trường đã quen thì có thể mở rộng quyền chọn giữa VNĐ và các ngoại tệ khác
§  Bước đầu quyền chọn chỉ nên tiến hành theo phương pháp giao  dịch qua quầy ( OTC), vì phương thức giao dịch trên sở giao dịch chỉ khả thi khi thị trường phát triển đến trình độ cao , hơn nữa quyền chọn trên sở giao dịch mang tính đầu cơ là chủ yếu
§  Chỉ nên áp dụng quyền chọn kiểu châu Âu nghĩa là chỉ xảy ra tại thời điểm hợp đồng đáo hạn, vì hợp đồng quyền chọn kiểu Mĩ cho phép tiến hành thực hiện quyền chọn tại bất cứ thời điểm nào trong suốt thời gian hiệu lực của hợp đồng, do đó mang nặng tính đầu cơ nên chưa phù hợp với nước ta ở giai đoạn đầu. Tuy nhiên, khi thị trường đã phát triển ở trình độ cao thì cũng càn xem xét triển khai ngiệp vụ này.
§  Về mặt thời hạn hợp đồng để có thể kiểm soát được và tránh tâm lí đầu cơ , thì thời hạn hợp đồng nên qui định ngắn từ 3 tháng trở xuống khi thị trường đã phát triển thì thời hạn do ngân hàng và khách hàng tự thỏa thuận
·        Về nghiệp vụ tương lai
Do tác dụng của nó đối với nền kinh tế là hạn chế cho nên chưa mở rộng nghiệp vụ này ở Việt Nam










Comments

Popular posts from this blog

Gà rim mật ong

Phương pháp tính chỉ số chứng khoán và một số chỉ số chứng khoán tiêu biểu

Phân tích đầu tư chứng khoán: Công ty cổ phần Vĩnh Hoàn VHC